Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 10/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẨM XUYÊN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10 tháng 12 năm 2020 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 105/2020/TLST- HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2020 về việc Hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2020/QĐXX-ST ngày 8 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2020/QĐST- TA ngày 19/11/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Quốc Th, sinh năm 1997 Trú tại: tổ dân phố 10, thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Có mặt

2. Bị đơn: Chị Trương Thị H, sinh năm 1998 Trú quán: tổ dân phố 4A, thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai ngày 24/8/2020 anh Nguyễn Quốc Th trình bày: Anh và chị Trương Thị H kết hôn với nhau vào ngày 02/01/2020, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống với bố, mẹ chồng tại tổ dân phố 10 thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên. Tình cảm vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 5 tháng thì phát sinh mâu thuẫn, do tính cách cư xử của chị H không đúng mực quan điểm sống khác nhau. Anh Th và chị H đã sống ly thân từ tháng 6/2020 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên ngày 01/7/2020 anh Nguyễn Quốc Th làm đơn xin ly hôn với chị Trương Thị H.

Về con cái, tài sản và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn chị Trương Thị H từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay đã nhiều lần triệu tập chị H đến Tòa án và UBND thị trấn Cẩm Xuyên để làm việc chị H chỉ đến Tòa án một lần làm bản tự khai thì chị không đồng ý ly hôn. Sau đó những buổi làm việc tiếp theo Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng chị H không hợp tác và không đến Tòa án để làm việc.

Về con chung: Tại bản tự khai chị H trình bày vợ chồng không có con chung, không có tài sản, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cẩm Xuyên phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và Anh Nguyễn Quốc Th đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Riêng đối với bị đơn, chị Trương Thị H mặc dù chị H có mặt tại địa phương, biết việc anh Th làm đơn ly hôn nhưng nhiều lần tòa án triệu tập và trực tiếp về tại địa phương để làm việc nhưng chị H không có mặt, không hợp tác làm việc. Điều này thể hiện ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm, không tôn trọng Tòa án, trốn tránh nghĩa vụ với nguyên đơn.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 207, Điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 BLTTDS năm 2015; Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 53, Khoản 1 Điều 56, Điểu 57 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 xử: Chấp nhận cho Anh Nguyễn Quốc Th được ly hôn chị Trương Thị H. Về con cái, tài sản, về nợ: Trong thời gian chung sống vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung và nợ chung nên không xem xét.

- Về án phí: Anh Nguyễn Quốc Th phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến vị đại diện Viện kiểm sát phát biểu về đường lối giải quyết vụ án cũng như việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng.

[1]. Về thẩm quyền: Anh Nguyễn Quốc Th khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với chị Trương Thị H, hiện tại chị Trương Thị H có hộ khẩu đăng ký thường trú tại tổ dân phố 4A, thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh theo quy định tại khỏan 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của Anh Nguyễn Quốc Th cùng với chứng cứ do anh Th cung cấp thì anh Nguyễn Quốc Th và chị Trương Thị H kết hôn với nhau theo quy định của pháp luật có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Cẩm Xuyên, huyện Cẩm Xuyên. Tuy nhiên sau một thời gian ngắn thì hai người phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau, nay hai người đã sống ly thân, anh Th có nguyện vọng xin được ly hôn để giải phóng cho hai người. Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, chị H đã cố tình lẩn tránh, không hợp tác, gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án.

Vào ngày 10/11/2020, Tòa án thông báo làm việc với anh Th và chị H tại UBND thị trấn Cẩm Xuyên nhưng chị H vẫn không có mặt, tại buổi làm việc chính quyền địa phương cung cấp: Chị Trương Thị H và anh Nguyễn Quốc Th có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Cẩm Xuyên vào ngày 02/01/2020, chị Trương Thị H có hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố 4A, thị trấn Cẩm Xuyên, hiện tại đang sinh sống tại nhà mẹ đẻ là bà Trần Thị Th, còn việc vợ chồng xẩy ra mâu thuẫn khi nào thì chính quyền địa phương không biết vì chị H và anh Th không trình báo lên. Sau đó Tòa án kết hợp với chính quyền địa phương về trực tiếp tại nhà mẹ đẻ chị H là bà Trần Thị Th để làm việc nhưng chị H không có mặt tại nhà. Tại buổi làm việc thì Thẩm phán có điện thoại cho chị H nhưng chị không nghe máy sau đó nhờ người hàng xóm điện thoại thì chị H nghe máy và nói chuyện trực tiếp với đồng chí Hoàng Nhật S – tư pháp UBND thị trấn Cẩm Xuyên qua cuộc nói chuyện thì chị H biết rõ việc anh Th làm đơn ly hôn và chị biết nhưng lần Tòa án triệu tập nhưng chị không đến để làm việc và chị nói sẽ lên gặp Thẩm phán sau. Chứng tỏ chị Trương Thị H là người không chấp hành pháp luật vẫn cố tình lẫn tránh, thiếu thiện chí và không hợp tác với Tòa án gây khó khăn cho công tác điều tra giải quyết vụ án. Vì vậy, mỗi lần tống đạt các giấy tờ tài liệu cho chị H hết sức khó khăn sau khi niêm yết các giấy tờ tài liệu tại trụ sở UBND thị trấn Cẩm Xuyên. Tại bản tự khai thì chị H không đồng ý ly hôn nhưng Tòa án triệu tập thì chị không đến để hòa giải. Như vậy mục đích hôn nhân là xây dựng tổ ấm gia đình, sinh con và nuôi dạy con cái nên người, tạo lập kinh tế để duy trì và phát triển đời sống. Khi mâu thuẫn xẩy ra cả anh Th và chị H đã không cố gắng để phân tích sai đúng, khuyết điểm tồn tại của nhau tìm giải pháp tốt nhất và nhằm hàn gắn tình cảm vợ chồng. Mà trái lại khi mâu thuẫn xẩy ra thì chị H về nhà mẹ đẻ sinh sống và anh Th cũng bỏ mặc không quan tâm gì. Chứng tỏ mục đích hôn nhân không đạt được nên anh Th đã làm đơn xin ly hôn và tha thiết chấm dứt mối quan hệ hôn nhân giữa anh và chị H là hoàn toàn phù hợp. Đối với chị Trương Thị H tuy không muốn ly hôn nhưng chị H không hợp tác làm việc để đưa ra được biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử xét thấy thực tế tình cảm vợ chồng tình cảm hai người đã thật sự tan vỡ, không thể hàn gắn được. Cần áp dụng khoản 1 điều 51, điều 56, điều 57, điều 58 Luật hôn nhân và gia đình xử cho Anh Nguyễn Quốc Th được ly hôn với chị Trương Thị H.

[3]. Về con chung: Không có.

[4]. Về tài sản, nợ chung của vợ chồng: Không có, nên HĐXX không xem xét.

[5]. Về án phí: Anh Nguyễn Quốc Th phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 điều 39: khoản 4 Điều 147, điều 177, điều 179, Khoản 1 Điều 207, Điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 1 Điều 51, Khoản 1 Điều 53, điều 56, điều 57 Luật hôn nhân và gia đình 2014; Điểm a khoản 1 điều 24; Điểm a khoản 05 điều 27 Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[1]. Về tình cảm: Xử cho Anh Nguyễn Quốc Th được ly hôn với chị Trương Thị H.

[2]. Về án phí: Buộc anh Nguyễn Quốc Th phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0005589 ngày 24/8/2020 tại Chi cục thi hành án huyện Cẩm Xuyên. Tiền án phí ly hôn sơ thẩm anh Th đã nộp đủ.

[3]. Quyền kháng cáo bản án. Nguyên đơn anh Nguyễn Quốc Th có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn chị Trương Thị H vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 10/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:08/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về