TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU
BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/03/2020 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN
Ngày 06 tháng 3 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 516/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2019 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 01 năm 2020 giữa các đương sự:
1/. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị B, sinh năm 1978 Địa chỉ: ấp 2, thị trấn GH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu
2/. Bị đơn: Anh Phạm Anh H, sinh năm 1979 Địa chỉ: ấp 2, thị trấn GH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu (Chị B có đơn xin vắng mặt, anh H vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 07/11/2019, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Đỗ Thị B trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: giữa chị với anh Phạm Anh H đi đến hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục tại địa phương vào năm 1997 và có đăng ký kết hôn tại Ủy Bn nhân dân thị trấn GH, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 29/10/2004 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.
Nguyên nhân ly hôn theo chị B xác định: thời gian đầu chung sống giữa chị và anh H sống cũng rất hạnh phúc, tuy nhiên đến năm 2012 giữa chị và anh H bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, trong một lần cãi nhau anh H có hành vi đánh chị, sự việc này đã được Ủy ban nhân dân thị trấn Gành Hào hòa giải nhưng không thành, vợ chồng chị đã sống ly thân với nhau từ năm 2012 cho đến nay, trong thời gian sống xa nhau không ai quan tâm ai hay tìm biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng, nay chị không thể tiếp tục chung sống với anh H, nên chị B yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.
Về con chung: Chị Đỗ Thị B xác định trong thời gian chung sống chị và anh H có với nhau 03 người con chung tên Phạm Thị M, sinh ngày 20/8/1999; Phạm Duy Th, sinh ngày 17/10/1997 và Phạm Thị Kim Th, sinh ngày 19/10/2002, hiện 02 người con chung tên M và tên Th đã trưởng thành và có gia đình riêng nên chị không đặt ra yêu cầu xem xét giải quyết, còn cháu Th hiện đang sống chung với chị, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục, về cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Đỗ Thị B xác định chị và anh Phạm Anh H chung sống nhưng không có tài sản chung cũng như không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng, khi ly hôn chị không đặt ra yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Đối với anh Phạm Anh H: Mặc dù anh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh H vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh H theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Phạm Anh H chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.
Về nội dung vụ án: giữa chị B và anh H kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, hiện tại chị B xác định chị không còn tình cảm với anh H. Điều này chứng tỏ như vậy cuộc sống vợ chồng của chị B và anh H nếu tiếp tục kéo dài thì cũng không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị B được ly hôn với anh H là phù hợp với quy định của pháp luật;
Về con chung: Từ lúc vợ chồng chị B và anh H sống ly thân với nhau thì người con chung tên Phạm Thị Kim Th, sinh ngày 19/10/2002 là do chị B trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị B vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, cháu Th có nguyện vọng được sống với mẹ là chị Đỗ Thị B. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao người con chung tên Phạm Thị Kim Th cho chị Đỗ Thị B được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp. Đối với 02 người con chung tên Phạm Thị M và Phạm Duy Th đã trưởng thành có gia đình riêng nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Chị B không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Anh H có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.
Về tài sản và nợ: Chị Đỗ Thị B xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có thiếu nợ ai, cũng không ai thiếu nợ vợ chồng anh chị. Khi ly hôn chị Yến không đặt ra yêu cầu, nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Về án phí thì chị B phải chịu theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng: chị B có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh H. Anh H có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.
Chị Đỗ Thị B có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị Đỗ Thị B.
Anh Phạm Anh H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh Phạm Anh H vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Phạm Anh H.
[2] Về nội dung vụ án: giữa chị B và anh H kết hôn hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân thị trấn GH cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 29/10/2004 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Xét yêu cầu ly hôn của chị B đối với anh H thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị B và anh H lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Hiện anh chị đã sống ly thân với nhau một khoảng thời gian dài nhưng cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau. Hội đồng xét xử xét cuộc sống vợ chồng của chị B và anh H là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị B đối với anh H là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.
Về nuôi con chung: Từ lúc vợ chồng chị B và anh H sống ly thân với nhau thì người con chung tên Phạm Thị Kim Th, sinh ngày 19/10/2002 là do chị B trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục. Chị B vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, mặc cháu cháu Th có nguyện vọng được tiếp tục sống chung với mẹ là chị Đỗ Thị B. Do đó Hội đồng xét xử quyết định giao con cho chị B được tiếp tục nuôi dưỡng giáo dục là hoàn toàn phù hợp. Đối với 02 người con chung tên Phạm Duy Th và Phạm Thị M đã trưởng thành và có gia đình riêng nên không đặt ra xem xét giải quyết.
Chị B không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Anh H có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Nếu sau này anh Hiếu chứng minh được chị B nuôi con, nhưng không lo lắng chăm sóc tốt cho cuộc sống của con thì anh có quyền nộp đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.
Về tài sản và nợ: chị B xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, không có thiếu nợ ai, cũng không ai thiếu nợ vợ chồng anh chị. Khi ly hôn chị B không đặt ra yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị B phải chịu theo quy định của pháp luật.
Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
Vì các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Bn thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị B về việc yêu cầu ly hôn với anh Phạm Anh H; Xử cho chị Đỗ Thị B được ly hôn với anh Phạm Anh H.
2/.Về nuôi con chung: Giao người con chung tên Phạm Thị Kim Th, sinh ngày 19/10/2002 cho chị Đỗ Thị B được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.
Anh Phạm Anh H có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở.
Chị Đỗ Thị B không đặt ra yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết. Tạm thời miễn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh Phạm Anh H.
3/. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đặt ra xem xét giải quyết.
4/. Về án phí: chị Đỗ Thị B phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0004069 ngày 10 tháng 12 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Đỗ Thị B và anh Phạm Anh H được biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 08/2020/HNGĐ-ST ngày 06/03/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn
Số hiệu: | 08/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về