Bản án 08/2020/DS-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 08/2020/DS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 22 tháng 09 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đăk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 146/2019/TLST-DS ngày 16/12/2019 về“Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2020/QĐXXST-DS ngày 01/09/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng N;

Đa chỉ: Số H, L, Phường Th, quận B, TP. Hà Nội;

Ngưi đại diện theo pháp luật: Ông Trịnh Ngọc Kh – Chủ tịch HĐTV;

Người được ủy quyền: Ông Nguyễn Đức Th – Giám đốc phòng giao dịch huyện T (Ngân hàng N – Chi nhánh tỉnh Đăk Nông); Địa chỉ: Thôn H, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông – Có mặt;

Bị đơn: Ông Đặng Bá Th, sinh năm 1983; Địa chỉ: Thôn H, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông – Có đơn yêu cầu giải quyết và xét xử vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/9/2019 (nộp cho Tòa án ngày 06/12/2019) và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay ông Nguyễn Đức Th người được nguyên đơn ủy quyền trình bày:

Ngày 16/4/2015, Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T (gọi tắt là Ngân hàng) ký kết hợp đồng tín dụng số: 5300LAV201502946/HĐTD với ông Đặng Bá Th. Theo hợp đồng đã ký kết, số tiền Ông Th vay là 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng). Phương thức cho vay: vay từng lần. Thời gian thanh toán: 12 tháng; ngày đến hạn 15/04/2016; định kỳ trả gốc, lãi hàng tháng vào ngày 15; lãi suất tại thời điểm ký HĐTD là 10,5%/năm; mục đích vay vốn: mua sắm vật dụng sinh hoạt; lãi suất nợ quá hạn bằng 150% so với lãi suất vay đã thỏa thuận (5,25%). Tuy nhiên, đến nay ông Đặng Bá Th đã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền gốc và lãi cho ngân hàng kể từ ngày 15/01/2016 với số tiền gốc là 3.500.000 đồng và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Tính đến ngày 20/8/2019, Ông Th còn nợ Ngân hàng số tiền 18.903.458 đồng (trong đó: tiền gốc là 12.000.000 gốc, tiền lãi: 6.903.458 đồng).

Vì vậy, Ngân hàng làm đơn khởi kiện yêu cầu ông Đặng Bá Th phải trả cho Ngân hàng số tiền gốc: 12.000.000 đồng và tiền lãi suất phát sinh theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết đến khi trả xong nợ.

* Tại bản tự khai đề ngày 26/06/2020 của bị đơn anh Đặng Bá Th trình bày:

Ông Th có ký hợp đồng tín dụng với Phòng giao dịch Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện T vào tháng 4/2015. Số tiền vay, lãi suất và thời gian thanh toán được ghi rõ trong hợp đồng và việc thanh toán tiền cho Ngân hàng được trừ theo chế độ tiền lương hàng tháng nên không nhớ cụ thể. Việc Ông Th vay tiền sử dụng vào chi tiêu công việc riêng của cá nhân nên vợ ông không biết. Do đến tháng 8/2016 Ông Th bị khởi tố và bắt tạm giam về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và hiện đang chấp hành án tại trại giam Đắk P’Lao, Cục C10, Bộ Công an (huyện Đắk G’Long, tỉnh Đắk Nông); nên việc thanh toán tiền cho Ngân hàng bị gián đoạn. Số tiền vay theo như hợp đồng tín dụng với Ngân hàng Ông Th sẽ trả cho Ngân hàng cả gốc và lãi quá hạn sau khi thực hiện xong án phạt tù theo quy định.

* Ý kiến của bà Võ Thị Mỹ L (vợ của Ông Th):

Việc Ông Th vay vốn của Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T thì bà Lợi không biết. Nay Ngân hàng khởi kiện thì bà Lợi không có liên quan, không có trách nhiệm gì. Ông Th vay thì Ông Th sẽ có trách nhiệm chi trả theo hợp đồng tín dụng đã ký kết với Ngân hàng.

* Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không thay đổi, bổ sung gì; bị đơn vắng mặt và có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T phát biểu quan điểm về trình tự thủ tục tố tụng và hướng xử lý vụ án:

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về trình tự thủ tục tố tụng: Thẩm phán thiết lập hồ sơ đúng trình tự theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử đúng thành phần; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án là đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vnội dung, vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX:

Căn cứ khoản 3 điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Áp dụng Điều 357; Điều 463; Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015. Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T. Buộc ông Đặng Bá Th có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T số tiền 20.999.958 đồng, trong đó tiền gốc là 12.000.000 đồng, tiền lãi phát sinh tính đến ngày 22/09/2020 là 8.999.958 đồng và tiền lãi suất phát sinh theo hợp đồng tín dụng số 5300LAV201502946/HĐTD kể từ ngày 23/09/2020 cho đến khi thanh toán xong nợ.

Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Buộc ông Đặng Bá Th phải chịu tiền án phí DSST theo quy định của pháp luật. Trả lại cho Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T số tiền 472.000 đồng tiền tạm ứng án phí DSST đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, đối chiếu với các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Đây là quan hệ tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện Hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T và ông Đặng Bá Th. Nơi ký kết, thực hiện hợp đồng giữa hai bên và nơi bị đơn ông Đặng Bá Th đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn H, xã Đăk Buk So, huyện T, tỉnh Đắk Nông. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, điểm g khoản 1 Điều 40 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đăk Nông.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập và tống đạt các thủ tục tố tụng hợp lệ cho nguyên đơn, bị đơn lên làm việc. Tuy nhiên, bị đơn ông Đặng Bá Th hiện đang chấp hành án tại trại giam Đắk P’Lao, Cục C10, Bộ Công an (huyện Đắk G’Long, tỉnh Đắk Nông) nên không đến Tòa án làm việc được và có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết và xét xử vắng mặt. Do đó, Tòa án không tiến hành hòa giải được vụ án và đưa vụ án ra xét xử vắng mặt Ông Th theo quy định của pháp luật.

[3] Về nội dung tranh chấp:

Ngày 16/4/2015, Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T (gọi tắt là Ngân hàng) ký kết hợp đồng tín dụng số: 5300LAV201502946/HĐTD với ông Đặng Bá Th. Theo hợp đồng đã ký kết, số tiền Ông Th vay là 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng). Phương thức cho vay:

vay từng lần. Thời gian thanh toán: 12 tháng; ngày đến hạn 15/04/2016; định kỳ trả gốc, lãi hàng tháng vào ngày 15; lãi suất tại thời điểm ký HĐTD là 10,5%/năm; mục đích vay vốn: mua sắm vật dụng sinh hoạt; lãi suất nợ quá hạn bằng 150% so với lãi suất vay đã thỏa thuận (5,25%). Tuy nhiên, ông Đặng Bá Th không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền gốc và lãi cho ngân hàng kể từ ngày 15/01/2016 theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Vì vậy, Ngân hàng làm đơn khởi kiện buộc Ông Th phải thanh toán số tiền gốc là 12.000.000 đồng và tiền lãi suất phát sinh theo Hợp đồng tín dụng đã ký kết cho đến khi trả xong nợ.

[4] Nhận định của Hội đồng xét xử:

[4.1] Hợp đồng tín dụng số: 5300LAV201502946/HĐTD ngày 16/4/2015 giữa Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T và ông Đặng Bá Th được ký kết trên cơ sở tự nguyện, không trái quy định của pháp luật, đạo đức xã hội và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật cả về nội dung và hình thức. Ngân hàng đã giải ngân đủ cho Ông Th. Quá trình thực hiện giao dịch các đương sự có đủ năng lực hành vi dân sự và tự nguyện ký kết, thỏa thuận hợp đồng. Do đó, hợp đồng này hợp pháp.

[4.2] Căn cứ hợp đồng tín dụng số 5300LAV201502946/HĐTD ngày 16/4/2015, anh Thuận có nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng số tiền 3.500.000 đồng tiền gốc và tiền lãi phát sinh trong hạn là 10,5%/năm định kỳ vào ngày 15 hàng tháng. Tuy nhiên, kể từ ngày 15/01/2016 anh Thuận không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền gốc và tiền lãi suất phát sinh cho Ngân hàng theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Do anh Thuận vi phạm hợp đồng nên Ngân hàng khởi kiện buộc anh Thuận phải thanh toán cho Ngân hàng số tiền gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký kết là có căn cứ nên cần chấp nhận.

Từ những phân tích trên HĐXX xét thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T buộc anh Đặng Bá Th phải trả cho Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T số tiền gốc và tiền lãi suất cụ thể như sau:

- Tiền gốc: 12.000.000 đồng;

- Tiền lãi (trong hạn và quá hạn): 9.000.000 đồng (làm tròn).

Như vậy, cần buộc anh Đặng Bá Th phải trả cho Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T số tiền 21.000.000 đồng (trong đó gồm 12.000.000 đồng tiền gốc và 9.000.000 đồng tiền lãi).

[5] Về án phí: Bị đơn anh Đặng Bá Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận.

các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng Điều 357; Điều 463; Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015. Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010.

1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T.

Buộc anh Đặng Bá Th phải trả cho Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T số tiền 21.000.000 đồng (trong đó gồm 12.000.000 đồng tiền gốc và 9.000.000 đồng tiền lãi).

Kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử sơ thẩm, anh Đặng Bá Th vẫn phải tiếp tục chịu lãi suất tính trên nợ gốc theo hợp đồng tín dụng số 5300LAV201502946/HĐTD ngày 16/4/2015 cho đến khi thanh toán xong.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Buộc anh Đặng Bá Th phải nộp 1.050.000 đồng (Một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trả lại cho Ngân hàng N – Chi nhánh Đắk Nông – Phòng giao dịch huyện T số tiền 472.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi hai nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0000775 ngày 12/12/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đăk Nông.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại chính quyền địa phương.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2020/DS-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:08/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về