Bản án 08/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 08/2019/HS-ST NGÀY 22/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 251/2018/HSST ngày 27 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo: Họ và tên: Lưu Tuyết Nh, sinh ngày 16/02/1999, tại tỉnh C (có mặt); Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Số 68, Trương Phùng Xuân, khóm 5, phường 8, thành phố C, tỉnh C; Chỗ ở: Số 68, Trương Phùng Xuân, khóm 5, phường 8, thành phố C, tỉnh C; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lưu Minh T (đã chết) và bà Trần Thị E; chồng: Lê Phi Th; con 01 người 04 tuổi; tiền sự: Không; tiền án: Không.

Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 05/10/2018 cho đến nay.

- Bị hại:

Chị Tô Thị Cẩm T, sinh năm: 1990; nơi cư trú: Số 66, Trương Phùng Xuân, khóm 5, phường 8, thành phố C, tỉnh C (xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 02 tháng 10 năm 2018, Lưu Tuyết Nh đi bắt ốc ma phía sau nhà, khi đi đến nhà của chị Tô Thị Cẩm T, ngụ cùng xóm, Nh phát hiện cửa sổ nhà chị T mở không khoá, Nh đến cửa sổ nhà chị T nhìn thấy cái cặp để trên giường ngủ nên Nh nảy sinh ý định chiếm đoạt. Thực hiện ý định trên, Nh đến bụi cây lấy cây sào treo quần áo bằng Inox đưa qua cửa sổ móc cái cặp kéo lại gần cửa sổ nhưng do cái cặp quá lớn, không kéo ra khỏi cửa sổ được nên Nh dùng tay mở cặp ra thì thấy trong cặp có cái ví cầm tay màu cam và Nh đã lấy cái ví bỏ vào trong người rồi Nh ra phía trước nhà chị T. Lúc này, Nh gặp bà Trịnh Thu H là mẹ ruột chị T hỏi Nh đi đâu thì Nh trả lời đi bắt ốc ma, sau đó Nh bỏ về nhà. Khi về đến nhà, Nh giấu cái ví vừa lấy được của chị T vào trong giỏ đựng đồ của Nh để trong phòng ngủ rồi Nh đi ngủ.

Khoảng 07 giờ ngày 03 tháng 10 năm 2018, Nh thức dậy mở cái ví ra xem thấy có tiền Việt Nam và Đô la Mỹ, Nh chia thành 03 xấp cất giấu ở 03 nơi khác nhau, còn cái ví và bên trong ví có mặt dây chuyền vàng, một số giấy tờ tuỳ thân của chị T, Nh đã ném qua phía vách nhà của chị T.

Sáng ngày 03/10/2018, chị T đến Công an phường 8, thành phố Cà Mau trình báo việc mất trộm tối qua. Tài sản bị mất gồm: 01 cái ví cầm tay hiệu Vascara màu cam, trong ví có tiền Việt Nam 12.490.000đ, 506 USD, 01 sổ tiết kiệm của Ngân hàng Sacombank trị giá 60.000.000đ, 01 giấy chứng minh nhân dân, 01 giấy phép lái xe, 01 giấy đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 69C1-128.50, 01 giấy bảo hiểm xe, 01 thẻ bảo hiểm y tế đều mang tên Tô Thị Cẩm T; 01 mặt dây chuyền vàng 18K, trọng lượng 02 phân.

Trên cơ sở đó, Công an phường 8, thành phố Cà Mau tiến hành mời Nh làm việc, qua làm việc, Nh đã thừa nhận hành vi chiếm đoạt tài sản của chị T vào ngày 02/10/2018 đồng thời chỉ nơi cất giấu tài sản của chị T. Công an tiến hành kiểm tra và thu giữ tiền tại các nơi cất giấu do Nh chỉ với tổng số tiền Việt Nam là 10.300.000đ và 506 USD. Ngày 03/10/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau tiến hành khám nghiệm hiện trường nơi xảy ra vụ việc đã thu giữ 01 cây sào Inox dài 1,2m.

Tại kết luận định giá tài sản số: 183/KL-HĐĐG ngày 14/11/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Cà Mau kết luận, tính vào thời điểm tháng 10/2018:

+ 01 cái ví cầm tay hiệu Vascara màu cam, giá trị còn lại 62,5%: 470.000 đồng x 62,5% = 293.750 đồng;

+ 01 mặt dây chuyền vàng 18K trọng lượng 02 phân, có giá: 260.800 đồng x 02 phân = 521.600 đồng;

+ 506 USD có giá 23.270 đồng/USD: 23.270.000 đồng x 506 USD = 11.774.620 đồng. Tổng cộng bằng 12.589.970 đồng.

Đối với cái ví do bị cáo ném lại qua vách nhà chị T nên chị T đã tìm lại đượ cái ví cùng các giấy tờ và mặt dây chuyền vàng 18K.

Tại Cáo trạng số: 07/CT-VKS ngày 25/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Lưu Tuyết Nh về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố, kiểm sát xét xử giữ nguyên Cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lưu Tuyết Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lưu Tuyết Nh từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 cây sào Inox dài 1,2m. Về trách Nhệm dân sự: Do chị T đã nhận lại đủ tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhận dân thành phố Cà Mau, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

[2] Đối với người bị hại là chị Tô Thị Cẩm T vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy việc vắng mặt của người bị hại không ảnh hưởng đến nội dung xét xử vụ án nên căn cứ quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị T theo luật định.

[3] Tại phiên tòa, bị cáo Lưu Tuyết Nh khai nhận: Trong lúc đi bắt ốc ma, bị cáo nhìn thấy cửa sổ nhà chị T không khoá, bị cáo nhìn qua cửa sổ thấy cái cặp để trên giường ngủ chị T, không người trông coi nên Nh nhất thời nảy sinh ý định chiếm đoạt. Từ đó, bị cáo thấy cây sào treo quần áo để trong bụi cây nên bị cáo lấy cây sào kéo cái cặp lại gần cửa sổ và chiếm đoạt cái ví cầm tay màu cam, trong đó có tiền Việt Nam, Đô la Mỹ với tổng trị giá 25.079.970đ nhằm mục đích tiêu xài cá nhân.

[4] Xét lời khai nhận của bị cáo là có cơ sở để chấp nhận, bởi lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ được và Nhều tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra. Do đó, Cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 25/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[5] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách bất hợp pháp, hành vi đó đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây hoang mang, bất ổn trong quần chúng và làm mất trật tự trị an tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực trách Nhệm hình sự, bị cáo biết rõ việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lòng tham nhất thời, muốn hưởng lợi trên sức lao động của người khác mà bị cáo đã thực hiện tội phạm hoàn thành với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi bị cáo gây ra.

[6] Tuy Nhên, trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; số tiền bị hại khai bị mất 12.490.000đ nhưng thực tế kiểm tra thu giữ 10.300.000đ nên bị cáo đã nộp bồi thường cho bị hại 2.190.000đ để đủ số tiền theo bị hại khai. Mặt khác, bị cáo không biết chữ nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế nên nhất thời phạm tội, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo có con nhỏ (hơn 03 tuổi), nhân thân bị cáo chưa tiền án, tiền sự. Bên cạnh đó, bị hại cũng có phần chủ quan, sơ xót trong việc quản lý tài sản, tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện việc phạm tội. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách Nhệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Thấy rằng, bị cáo có nhân thân tốt; có Nhều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng; có nơi cư trú rõ ràng; xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, vì bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội nên giao bị cáo về Uỷ ban nhân dân xã nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách là đủ.

[7] Về trách Nhệm dân sự: Người bị hại là chị Tô Thị Cẩm T đã nhận lại đủ tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 cây sào Inox dài 1,2m là công cụ bị cáo dùng để kéo cái cặp của chị T ra cửa sổ nhằm chiếm đoạt tài sản nên tịch thu tiêu hủy là có cơ sở.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố bị cáo: Lưu Tuyết Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Lưu Tuyết Nh 01 (một) năm tù cho bị cáo hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm, thời hạn tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường 8, thành phố C, tỉnh C để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

“Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

- Tịch thu tiêu hủy 01 cây sào Inox dài 1,2m.

- Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ khi bản án có hiệu lực pháp luật.

- Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/HS-ST ngày 22/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:08/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về