TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LƯƠNG SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 08/2019/HSST NGÀY 02/04/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 02 tháng 04 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 11/2019/HSST ngày 05 tháng 03 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2019/ HSST ngày 18 tháng 03 năm 2019 đối với bị cáo: Đặng Nhất H (Đặng Đình Đ), sinh năm 1963
Nơi cư trú: Tiểu khu 8, thị trấn L, huyện L, tỉnh Hòa Bình.
Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 10/10; nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Đặng Đình A; Con bà: Đỗ Thị Th (đều đã chết) Vợ, con: Có vợ là: Nguyễn Thị Tuyết M (đã ly hôn) và 02 con; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ ba.
Tiền án, tiền sự: Không
Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/03/2019 đến nay, có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: anh Trần Đình N, sinh năm 1981(có mặt) Nơi ĐKTT: Xóm K, xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình
Chỗ ở hiện tại: Phố B, xã T, huyện C, tỉnh Hòa Bình
Người có quyền l ợi , nghĩa vụ liên quan :
Ông Đặng Đình H1, sinh 1968 (có mặt)
Anh Đặng Quốc B, sinh năm 1994 (có mặt)
Cùng trú tại: Tiểu khu 8, thị trấn L, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Anh Đỗ Thanh T, sinh năm 1998 (vắng mặt)
Trú tại: Xóm 2, thôn L, xã H, huyện Q, TP Hà Nội
Ng ười là m chứng :
Anh Nguyễn Thành L, sinh năm 1974
Chị Lê Thị D, sinh năm 1967
Chị Trần Thị T1, sinh năm 1958
Cùng trú tại: Tiểu khu 8, thị trấn L, huyện L, tỉnh Hòa Bình. Chị Bùi Thị Phương L1, sinh năm 1987
Nơi đăng ký tạm trú: Xóm K, xã L, huyện L, tỉnh Hòa Bình
Chỗ ở hiện tại: Phố B, xã T, huyện C, tỉnh Hòa Bình
Chị Nguyễn Thị L2, sinh năm 1959
Trú tại: Xóm M, thị trấn L, huyện L, tỉnh Hòa Bình
Chị Đặng Hải Y, sinh năm 1998
Trú tai: Xóm 2, thôn L, xã H, huyện Q, TP Hà Nội
(Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 9 giờ 30 phút, ngày 20/03/2018, anh Trần Đình N điều khiển xe ô tô BKS 29C-012.15 đi từ chợ Lương Sơn theo hướng đường vào khu dân cư tiểu khu 8, thị trấn Lương Sơn, huyện Lương Sơn để ra đường Quốc lộ 6, trên xe chở theo vợ là chị Bùi Thị Phương L1 và con trai cháu Trần Tuấn T2, khi đi đến đoạn đường cua ngã ba thuộc tiểu khu 8, thị trấn Lương Sơn thì anh N bấm còi xe để cảnh báo các phương tiện khác. Lúc này có ông Đặng Đình H1 sinh năm
1968, nhà ở tiểu khu 8, thị trấn Lương Sơn đang điều khiển xe mô tô đi qua, do bị tiếng còi xe ô tô của anh N làm giật mình nên ông H1 và anh N xảy ra tranh cãi, sau đó cả hai tiếp tục điều khiển xe đi. Khi xe ô tô anh N đi đến khu vực trước cổng gia đình ông H1 thì ông H1 dừng xe lại, thấy vậy anh N cũng dừng xe lại, hai bên tiếp tục cãi chửi nhau. Nghe tiếng cãi nhau nên người dân xung quanh và người đi đường đến xem và can ngăn, bảo anh N đánh xe ô tô đi để tránh tắc đường, nhưng anh N không đi, vì muốn giải quyết rõ ràng sự việc.
Trong lúc ngồi trên xe chị L1 gọi điện thoại cho bạn bè ở Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Nội đến giúp đỡ, đồng thời gọi điện thoại báo cho Công an huyện Lương Sơn đến để giải quyết.
Lúc này Đỗ Thanh T, con rể ông H1 đang ở trong nhà ông H1 nghe tiếng cãi nhau ngoài đường nên ra xem và can ngăn, bảo anh N cho xe đi để tránh tắc đường, nhưng anh N vẫn không đi, do vậy T cầm chiếc điếu cày đánh anh N qua cửa kính xe ô tô, nhưng anh N đỡ được và giằng lại chiếc điếu cày, đồng thời kéo kính xe lên và đóng lại (BL75).
Chị Đặng Hải Y con gái ông H1 đang ở trong nhà ông H1 nghe tiếng ông H1 đang cãi chửi nhau ngoài đường nên gọi Đặng Quốc B con trai ông H1 đang ngủ trong nhà dậy để ra xem thế nào.
Đặng Nhất H đang ở trong nhà của H cạnh nhà ông H1 nghe tiếng cãi chửi nhau ngoài đường,trước cổng nhà ông H1 nên cũng ra xem có chuyện gì. Khi nghe mọi người nói, do trước đó trong lúc tham gia giao thông giữa ông H1 và anh N có xẩy ra xích mích với nhau nên H đi tìm ông H1 để hỏi lý do. Vì không nhìn thấy ông H1 ở đâu, nên H đi vào nhà ông H1 để tìm ông H1.
Đến khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày thì có anh Nguyễn Trung Đ và anh Lê Đình H3 là Công an huyện Lương Sơn đến để giải quyết. Thấy có Công an đến, chị L1 bảo anh N xuống xe để giải quyết cho rõ ràng. Khi anh N vừa bước xuống xe đi về phía ông H1 thì bất ngờ bị Đặng Đình H1, Đặng Quốc B và Đỗ Thanh T lao vào dùng chân, tay đánh anh N.
Sau khi vào nhà tìm nhưng không gặp ông H1, H quay ra thì thấy đang xảy ra đánh nhau. Thấy vậy H giằng được một nửa viên gạch chỉ (loại gạch để xây nhà) của một người thanh niên trong đám đông, không xác định được là của ai, dùng tay phải đập một nhát vào đầu anh N gây thương tích. Lúc này có thêm một số đồng chí Công an huyện Lương Sơn tăng cường đến để giải quyết, được các đồng chí Công an và người dân can ngăn nên sự việc chấm dứt. Sau khi bị thương tích anh N được mọi người đưa vào Bệnh viện huyện Lương Sơn cấp cứu, sau đó chuyển Viện 103 điều chị tiếp.
Trong quá trình xảy ra sự việc, chị L1 ngồi trong xe ô tô có dùng điện thoại di động để quay video ghi lại thì bị Đỗ Thanh T đứng bên ngoài xe dùng tay hất điện thoại của chị L1, mục đích là không cho chị L1 quay video, chị L1 hô cướp thì chị Lê Thị D đang đứng ở gần đó đi đến kéo tay T và đẩy T đi vào trong nhà, đồng thời chị D dùng tay đập vào chiếc điện thoại của chị L1, làm cho chiếc điện thoại rơi xuống ghế ô tô. Chị D nhặt chiếc điện thoại lên và ném trả lại cho chị L1. Hiện nay chưa biết chiếc điện thoại trên ở đâu. Sau khi phạm tội, Đặng Nhất H đã đến Công an huyện Lương Sơn để đầu thú.
Tại bản kết luận giám định thương tích ngày 19/4/2018, của trung tâm Pháp y tỉnh Hòa Bình kết luận “ anh Trần Đình N bị chấn thương vùng đầu, mặt do vật tày tác động, gây chấn động não, tổn thương phần mềm. Hiện tại còn để lại vết sẹo vùng chẩm. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 03%”
Bản cáo trạng số: 45/CT- VKSNDLS ngày 17/10/2018, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn truy tố: Đặng Nhất H về tội “cố ý gây thương tích” theo điểm a, khoản 1 Điều 134 BLHS.
Kết thúc quá trình tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như bản cáo trạng đã đề cập. Về hình phạt đề nghị HĐXX áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 134, điểm i,s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt: Đặng Nhất H mức hình phạt từ 6 tháng đến 9 tháng tù.
Đối với việc bị hại trình báo bị mất 01 chiếc điện thoại di động của chị L1 và thiệt hại do xe ô tô bị hư hỏng. Căn cứ kết quả điều tra, không đủ căn cứ chứng minh, nên không đề cập ở vụ án này. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, khi nào điều tra làm rõ sẽ xử lý bằng vụ án khác.
Về Trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX xem xét buộc bị cáo bồi thường cho người bị hại các khoản chi phí thực tế hợp pháp như chi phí cứu chữa, điều trị, phương tiện đi lại, tiền bồi dưỡng sức khỏe, tiền mất thu nhập của bị hại và người chăm sóc, tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tuyên xuất hủy 01 phần viên gạch chỉ kích thước 04cmx11cmx5cm, 01 phần viên gạch chỉ kích thước 5,5cmx13cmx6cm, 01 chiếc điếu cày dài 58cm, đường kính 5cm là vật chứng vụ án.
Về án phí: Đề nghị tuyên buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật. Bị cáo trình bày lời bào chữa, thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Các hành vi, Quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và của cơ quan tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về các hành vi và Quyết định tố tụng đó. Do vậy các hành vi và Quyết định tố tụng trên là hợp pháp.
[2] Về căn cứ buộc tội, gỡ tội, tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa hôm nay, Đặng Nhất H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai thể thiện:
Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 20/3/2018, trong lúc bị cáo đang ở nhà tại tiểu khu 8, thị trấn Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình thì nghe tiếng cãi chửi nhau ngoài đường, bị cáo ra xem thì thấy có một chiếc xe ô tô màu xanh đang đỗ ở lòng đường, có rất đông người đang tụ tập, bị cáo hỏi lý do và được mọi người nói do trước đó trong lúc tham gia giao thông giữa ông Đặng Đình H1 và anh Trần Đình N có xảy ra tranh cãi nhau, sau khi biết lý do, bị cáo cùng mọi người can ngăn, bảo anh N đánh xe ô tô đi để tránh tắc đường, nhưng anh N không đi. Sau đó bị cáo đi vào nhà ông H1 tìm ông H1 để hỏi lý do,nhưng khi vào nhà tìm thì không thấy ông H1 ở đâu. Khi bị cáo quay ra thì thấy hai bên đang xảy ra đánh nhau, bị cáo can ngăn nhưng không được, do bực tức nên có giằng một nửa viên gạch của một người trong đám đông, không biết là của ai, dùng tay phải đập một nhát vào đầu anh Trần Đình N gây thương tích, được mọi người can ngăn sự việc kết thúc, sau đó bị cáo ra cơ quan Công an đầu thú.
Lời khai của Đặng Nhất H phù hợp với hành vi khách quan vụ án, phù hợp với thương tích người bị hại, vật chứng vụ án và lời khai người tham gia tố tụng khác, cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập. Do vậy đủ căn cứ kết luận Đặng Nhất H phạm tội cố ý gây thương tích quy định tại Điều 134 BLHS. Trong vụ án này mặc dù tỉ lệ tổn thương cơ thể Đặng Nhất H gây ra cho anh Trần Đình N dưới 11%, xong do bị cáo sử dụng hung khí nguy hiểm nên đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 134 BLHS.
Việc bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lương Sơn truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là có căn cứ.
Xét Đặng Nhất H là người có năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi mình thực hiện là vi phạm pháp luật. Xong do bực tức, thiếu kìm chế trong sử sự, bị cáo đã gây thương tích cho người khác dẫn đến phạm tội. Hành vi bị cáo gây ra xâm hại đến sức khỏe người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, góp phần làm gia tăng tội phạm trên địa bàn huyện Lương Sơn. Tính chất, mức độ do hành vi phạm tội gây ra là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo sử dụng gạch là vật cứng, chắc đập vào đầu có thể gây nguy hiểm cho tính mạng, sức khỏe của người bị hại. Do vậy cần cần xử lý nghiêm minh, có mức hình phạt tương xứng tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội gây ra mới đảm bảo tác dụng giáo dục, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung.
Tuy nhiên tòa cũng xét, sau khi phạm tội bị cáo ra đầu thú, quá trình điều tra, truy tố, xét xử có thái độ khai báo thành khẩn, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã tích cực khắc phục hậu quả nộp được số tiền 5.000.000đ tại cơ quan thi hành án, bị cáo có nơi cư trú ổn định. Trong vụ án người bị hại có lỗi một phần đó là khi sự việc xẩy ra, bị cáo đỗ xe ô tô dưới lòng đường, gây cản trở giao thông, lực lượng Công an và người dân can ngăn yêu cầu bị hại cho xe đi nhưng bị hại cố tình không đi nên đã tạo ra sự ức chế cho bị cáo và mọi người can ngăn. Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo xét thấy chưa cần cách ly bị cáo khỏi xã hội, mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù có điều kiện, giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát giáo dục, cũng đảm bảo tác dụng để cải tạo bị cáo.
[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong vụ án này, ngoài tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 134, bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào khác.
Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội, bị cáo đã ra đầu thú, quá trình điều tra, truy tố, xét xử có thái độ khai báo thành khẩn, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã tích cực khắc phục hậu quả gây ra, người bị hại có lỗi một phần quy định tại điểm i,s,b khoản 1, 2 Điều 51 BLHS.
Đối với đề nghị xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX đã xem xét theo quy định pháp luật trong quá trình nghị án.
[4]Về trách nhiệm dân sư: Hành vi bị cáo và các đối tượng khác gây ra là nguyên nhân gây thiệt hại cho sức khỏe của bị hại, người bị hại có yêu cầu bồi thường, do vậy cần buộc bị cáo và các đối tượng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bị hại là có căn cứ. Tuy nhiên xét trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, mặc dù cơ quan điều tra, truy tố và xét xử đã giải thích đầy đủ quyền và nghĩa vụ, Tòa đã gửi văn bản thông báo yêu cầu người bị hại cung cấp các tài liệu, chứng cứ để chứng minh về thiệt hại, nhưng tại phiên tòa hôm nay bị hại chưa cung cấp được đầy đủ chứng cứ. Do vậy để việc bồi thường được xem xét một cách đầy đủ, toàn diện. Việc tách phần trách nhiệm dân sự không làm ảnh hưởng đến việc xác định tội danh, hình phạt. Căn cứ công văn hướng dẫn số: 121/KHXX ngày 19/9/2003 của TANDTC thấy cần tách phần trách nhiệm dân sự để xem xét giải quyết bằng một vụ án dân sự khác là phù hợp.
[ 5 ] Xử lý vật chứng: Tuyên xuất hủy 02 phần viên gạch, 01chiếu điếu cày
[6] Vế án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Xét hành vi của các đối tượng Đặng Đình H1, Đặng Quốc B và Đỗ Thanh T trong vụ án này nhận thấy, Đặng Đình H1, Đặng Quốc B và Đỗ Thanh T có tham gia đánh người bị hại, tuy nhiên trước khi đánh anh Trần Đình N, Đặng Đình H1, Đặng Quốc B, Đỗ Thanh T và bị cáo Đặng Nhất H không có sự bàn bạc,thống nhất, không có ai hô hào, kích động, rủ rê ai thực hiện tội phạm, các đối tượng trên không ai tiếp nhận ý chí của ai, hành vi khách quan không có mối liên quan với nhau, mỗi người một động cơ, mục đích phạm tội, hành vi gây thương tích của Đặng Đình H1, Đặng Quốc B, Đỗ Thanh T và bị cáo Đặng Nhất H là tự phát, Do vậy giữa bị cáo H và các đối tượng H1, B, T không có tính chất đồng phạm. Mặt khác Đặng Đình H1, Đặng Quốc B,Đỗ Thanh T đánh anh Trần Đình N bằng chân, tay. Tỉ lệ phần trăm thương tích chưa đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý hành chính đối với Đặng Đình H1, Đặng Quốc B và Đỗ Thanh T là phù hợp.
Từ các nhận định trên
QUYẾT ĐỊNH
1.Tuyên bố: Đặng Nhất H phạm tội “ cố ý gây thương tích”
2. Áp dụng: Điểm a, khoản 1 Điều 134 BLHS, điểm i,s,b khoản1, 2 Điều 51, Điều 47, 65 BLHS, Điều 106 BLTTHS.
Xử phạt: Đặng Nhất H 9 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND thị trấn Lương Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp có thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.
3. Về TNDS: Tách phần trách nhiệm dân sự để giải quyết bằng vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự.
4.Xử lý vật chứng: Tuyên xuất hủy 01 phần viên gạch chỉ kích thước 04cmx11cmx5cm và 01 phần viên gạch chỉ kích thước 5,5cmx13cmx6cm, 01 chiếc điếu cày dài 58cm, đường kính 5cm. Vật chứng hiện lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 30 tháng 10 năm 2018.
5.Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS và Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội về án phí, lệ phí tòa án. Buộc Đặng Nhất H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án 08/2019/HSST ngày 02/04/2019 về tội cố ý gây thương tích
Số hiệu: | 08/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lương Sơn - Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về