Bản án 08/2019/DS-ST ngày 24/04/2019 về tranh chấp hợp đồng góp họ hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 08/2019/DS-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỌ HỤI

Trong ngày 24 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 224/2018/TLST-DS ngày 25 tháng 12 năm 2018 về viêc: “Tranh chấp hợp đồng góp họ (Hụi)” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2019/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2019/QĐST-DS ngày 11 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bé T (T1), sinh năm 1983

Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt).

2. Bị đơn: Vợ chồng bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1965 và ông Lê Văn M, sinh năm 1964.

Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết tại Tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Bé T trình bày:

Bà T đã tham gia chơi hai chân hụi trong hai dây hụi do bà T2 và ông M làm chủ, cụ thể như sau:

Dây hụi nửa tháng áp ngày 15 tháng 10 âm lịch năm 2016 bà T tham gia chơi 01 chân, trị giá 1.000.000 đồng/01 chân hụi, dây hụi có tổng cộng 35 người tham gia. Trong dây hụi này bà T đã hốt hụi được số tiền 29.300.000 đồng và còn nợ lại số tiền chưa đóng là 6.000.000 đồng.

Dây hụi 10 ngày áp ngày ngày 10 tháng 4 âm lịch năm 2017 bà T tham gia chơi 01 chân, trị giá 1.000.000 đồng/01 chân hụi, dây hụi có 36 người tham gia. Trong dây hụi này bà T đóng được số tiền 25.000.000 đồng thì bà T2 và ông M kêu bể hụi nên không hốt được hụi.

Việc chơi hụi không lập sổ sách theo dõi chung.

Cấn trừ hai dây hụi thì số tiền hụi bà T2 và ông M còn phải trả cho bà T là19.000.000 đồng.

Quá trình giải quyết và tại phiên tòa bà T yêu cầu bà T2 và ông M trả số tiền 19.000.000 đồng

Quá trình làm việc tại Tòa án, bị đơn bà Nguyễn Thị T2 trình bày:

Bà T2 thừa nhận có làm chủ các dây hụi và bà T có tham chơi các dây hụi do bà làm chủ như lời trình bày của bà T là đúng. Sau khi bể hụi bà T2, ông M và bà T thống nhất số tiền hụi bà T2 và ông M phải hoàn trả cho bà T là 19.000.000 đồng. Do hiện nay gặp khó khăn nên bà T2 xin được trả nợ dần, cứ nửa năm trả 2.000.000 đồng cho đến khi hết nợ.

Bị đơn – ông Lê Văn M vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và không có ý kiến phản hồi về nội dung khởi kiện của nguyên đơn.

Qua yêu cầu khởi kiện và ý kiến của các đương sự đã thống nhất và không thống nhất với nhau các vấn đề sau:

Những nội dung các đương sự đã thống nhất: Bà T và bà T2 thống nhất xác nhận bà T2 và ông M hiện còn nợ tiền hụi của bà T số tiền 19.000.000 đồng.

Nội dung không thống nhất: Bà T2 đề nghị trả nợ cho bà T cứ nửa năm trả2.000.000 đồng, bà T không đồng ý cho bà T2 và ông M trả nợ dần.

Kết quả thu thập chứng cứ:

Quá trình khởi kiện bà T cung cấp cho Tòa án 01 Đơn yêu cầu của bà T, tại mặt sau của đơn yêu cầu có thể hiện nội dung ông M và bà T2 thừa nhận có nợ của bà T 19.000.000 đồng tiền hụi và hứa cứ 06 tháng trả 2.000.000 cho đến khi hết nợ. Nội dung xác nhận có chữ ký của ông M và bà T2 và có xác nhận của Ban lãnh đạo ấp K, xã T. Tại phiên họp công khai chứng cứ ngày 22/02/2019 bà T2 xác nhận chứng cứ này là đúng và thừa nhận số nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Thẩm quyền giải quyết vụ án: Các đương sự đều có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên, căn cứ vào Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên.

Mặc dù được triệu tập hợp lện nhưng bà T2 và ông M vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử thống nhất xét xử vắng mặt các bị đơn.

[2] Về nội dung vụ án:

Quan hệ pháp luật tranh chấp: Tranh chấp phát sinh từ việc chơi hụi, bà T khởi kiện yêu cầu bà T2 và ông M trả nợ tiền hụi, do đó quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “Tranh chấp hợp đồng góp họ (Hụi)”.

Xét yêu cầu khởi kiện của bà T, Hội đồng xét xử xét thấy:

Trong quá trình giải quyết tại Tòa án, bà T và bà T2 đều thống nhất xác nhận: Vào tháng 10 năm 2016 và tháng 4 năm 2017 bà T có tham gia hai dây hụi do bà T2 và ông M làm chủ hụi. Việc chơi hụi không lập sổ theo dõi, không có sổ ghi chép chung. Sau khi hụi bị bể các bên đã thống nhất số tiền hụi mà bà T2 và ông M phải trả cho bà T là 19.000.000 đồng. Tại phiên hòa giải ngày 22/3/2019 bà T và bà T2 cùng xác nhận việc ông M và bà T2 còn thiếu tiền hụi của bà T tổng cộng là 19.000.000 đồng. Từ đó có cơ sở để xác định bà T2 và ông M có nợ tiền hụi của bà T là sự thật và yêu cầu khởi kiện của bà T là có căn cứ.

Căn cứ vào Điều 15 Nghị Định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính Phủ về Hụi, họ, biêu, phường cần buộc bà T2 và ông M phải giao trả cho bà T số tiền hụi còn lại là 19.000.000 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án bà T2 xin được trả dần số tiền nợ hụi cứ 06 tháng trả 2000.000 đồng nhưng không được bà T đồng ý do đó không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà T2.

Về lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền: Bà T không có yêu cầu.

Về án phí của vụ án: 19.000.000 đồng x 5% = 950.000 đồng, do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên cần buộc các bị đơn nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Hoàn trả cho bà T số tiền đã nộp tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 429, Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015;

- Điều 15, Điều 24, Điều 27 Nghị Định 144/2006/NĐ-CP ngày 06/4/2006 của Chính Phủ;

- Điều 26 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên Xử :

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Bé T.

Buộc bà Nguyễn Thị T2 và ông Lê Văn M có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị Bé T số tiền nợ hụi là 19.000.000 đồng (Mười chín triệu đồng). Nghĩa vụ trả nợ được thực hiện khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về lãi suất chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền bà Nguyễn Thị Bé T không có yêu cầu nên không xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc bà Nguyễn Thị T2 và ông Lê Văn M phải nộp án phí dân sự sơ thẩm là 950.000 đồng (Chín trăm năm mươi nghìn đồng).

Hoàn trả cho bà Nguyễn Thị Bé T sô tiên đã nộp tạm ứng án phí sơ thẩm là 475.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0005840 ngày 24/12/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện A tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A.

3. Báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 24/4/2019. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

413
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2019/DS-ST ngày 24/04/2019 về tranh chấp hợp đồng góp họ hụi

Số hiệu:08/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về