TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 08/2018/HS-ST NGÀY 31/07/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 31 tháng 7 năm 2018, tại Trung tâm văn hóa huyện Châu Thành, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2018/TLST-HS ngày 27 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2018/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Ngô Hợp Th, sinh năm: 1997, tại An Giang.
Nơi cư trú: Ấp Bình T, xã Bình M, huyện Châu Ph, tỉnh An G; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn) : 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Đạo phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn T, sinh năm 1972 (sống) và bà Lê Thị H, sinh năm 1970 (sống); Chung sống như vợ chồng với Huỳnh Minh Đ, sinh năm 1992; con: Có 01 người là Huỳnh Đăng K, sinh năm 2017.
Quá trình nhân thân:
+ Ngày 22/10/2015, bị Ủy ban nhân dân xã Bình M, huyện Châu Ph quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đến ngày 05/11/2015, được gia đình bảo lĩnh.
+ Ngày 22/12/2017, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Châu Ph, tỉnh An G khởi tố về tội Mua bán trái phép chất ma túy.
- Tiền án, tiền sự: Không.
- Bị cáo Ngô Hợp Th đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/03/2018 đến nay tại Trại tạm giam - Công an tỉnh An G.
2. Họ và tên: Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1974, tại An Giang.
Nơi cư trú: Ấp Vĩnh Th, xã Vĩnh H, huyện Châu Th, tỉnh An G; nghề nghiệp: Mua bán; trình độ văn hóa (học vấn) : 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo Hòa Hảo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1953 (sống) và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1955 (sống); vợ Lê Thị Thùy D, sinh năm 1977; con: Có 01 người là Nguyễn Anh Th, sinh năm 1997.
Quá trình nhân thân: Ngày 21/12/2009, bị Công an huyện Châu Ph quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc với số tiền 1.000.000 đồng.
- Tiền án: Không.
- Tiền sự: Ngày 13/12/2017, bị Ủy ban nhân dân xã Bình M, huyện Châu Ph đưa vào Cơ sở chữa bệnh bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đến ngày 27/12/2017, được gia đình bảo lĩnh. Ngày 12/01/2018, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Vĩnh H, huyện Châu Th, tỉnh An G quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày 12/01/2018. Đến ngày 15/03/2018, tạm đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo dục để điều tra xử lý về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Bị cáo Nguyễn Văn Q đang bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/03/2018 đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Châu Th, tỉnh An G.
Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Chị Nguyễn Anh Th, sinh năm: 1997 (có mặt)
Nơi cư trú: Ấp Vĩnh Th, xã Vĩnh H, huyện Châu Th, tỉnh An G.
- Người làm chứng:
1/- Chị Lê Thị Thùy D, sinh năm: 1977 (có mặt)
Nơi cư trú: Ấp Vĩnh Th, xã Vĩnh H, huyện Châu Th, tỉnh An G.
2/- Bà Huỳnh Thị L, sinh năm: 1967 (vắng mặt)
3/- Anh Hứa Quang Đ, sinh năm: 1985 (vắng mặt)
Cùng cư trú: Ấp cần Th, xã cần Đ, huyện Châu Th, tỉnh An G.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 20 phút ngày 05/03/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Châu Th, tỉnh An G kết hợp với Công an xã cần Đ, huyện Châu Th tiến hành kiểm tra nhà trọ “Hồng Th” thuộc ấp cần Th, xã cần Đ phát hiện tại phòng trọ số 4 có Nguyễn Văn Q và Ngô Hợp Th có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra bắt quả tang và thu giữ 05 bọc nilon có chất tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy tổng hợp) cùng nhiều vật dụng khác có liên quan. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Châu Th tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Q tại ấp Vĩnh Th, xã Vĩnh H, huyện Châu Th, tỉnh An G phát hiện bên trong tượng hình Ông Địa có 06 bọc nilon hàn kín, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy tổng hợp) cùng một số dụng cụ, đồ vật có liên quan.
Qua điều tra, Th khai nhận chất rắn màu trắng bên trong 05 bọc nilon bị thu giữ tại nhà trọ Hồng Th là ma túy đá. Th nhờ một người bạn tên L (không rõ nhân thân) mua dùm vào ngày 05/03/2018 với giá 1.500.000 đồng. Sau đó, Th mang về phòng trọ số 4, nhà trọ Hồng Th phân chia thành 11 bọc nhỏ, Thi để vào trong sọt rác tại phòng trọ 05 bọc, còn lại 06 bọc Th nhờ Q cất giấu và bị khám xét thu giữ.
* Căn cứ kết luận giám định số 126/KLGT-PC54 ngày 08/03/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An G, kết luận:
- Mẫu M1 gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 1,3101 gam (một phẩy ba một không một gam), loại Methamphetamine.
- Mẫu M2 gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 0,6973 gam (không phẩy sáu chín bảy ba gam), loại Methamphetamine. (Bút lục số 28).
Ngày 14/03/2018, Q và Th bị khởi tố điều tra.
* Tang vật chứng thu được trong vụ án, gồm:
- Năm bọc nilon trong suốt hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy tổng hợp) được niêm phong, bên trong hộp ký hiệu số 1;
- Sáu bọc nilon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (nghi vấn ma túy tổng hợp) được niêm phong, bên trong hộp ký hiệu số 2;
- Một sọt rác màu trắng - xanh;
- Một cây kéo bằng kim loại màu trắng; Một chai nước suối Vina bên trong có 01 đoạn ống hút; Hai nắp chai đục lỗ, có gắn hai đoạn ống hút; Bốn bật lửa đã qua sử dụng; Một nỏ thủy tinh; Hai đoạn ống hút nhựa; Bảy ống thủy tinh; Một tượng hình ông địa bằng sứ màu vàng - trắng; Hai mươi hai bọc nilon màu trắng hở hai đầu; Bốn mươi bọc nilon trắng có viền màu đỏ một đầu; Ba ống nỏ thủy tinh;
- Một xe môtô nhãn hiệu HONDA, loại VISION, màu xám, biển số 67C1 - 311.73; số máy JF58E0263084; số khung 5806EY26299; Một giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 67C1-311.73 mang tên Nguyễn Anh Th;
- Một giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn Q;
- Tiền Việt Nam 15.050.000 đồng (trong đó, Thi 300.000 đồng, Q 14.750.000 đồng), đã trả lại cho Nguyễn Anh Th (sinh năm 1997, con gái của Q) 10.000.000 đồng, đây là số tiền của Th.
* Về trách nhiệm dân sự: Không.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định.
Tại bản cáo trạng số: 07/CT-VKSCT.HS ngày 25 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Th, tỉnh An G quyết định truy tố để xét xử các bị cáo Ngô Hợp Th và Nguyễn Văn Q về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo Ngô Hợp Th và Nguyễn Văn Q đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Ngô Hợp Th với mức án từ 02 năm tù đến 02 năm 06 tháng tù và xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q với mức án từ 01 năm tù đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về vật chứng của vụ án đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Bị cáo Th và Q đều xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Th, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Th, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa các bị cáo Ngô Hợp Th và Nguyễn Văn Q đều khai nhận:
Vào khoảng 9 giờ ngày 05/3/2018 Th sử dụng điện thoại của Th gọi vào số điện thoại của L (không rõ nhân thân) nhờ mua dùm 1.500.000đ ma túy đá. Sau đó, Th mang vào phòng trọ số 4, nhà trọ “Hồng Th”, Th dùng dụng cụ có sẵn phân chia thành 11 bọc nhỏ, Th để vào trong sọt rác tại phòng trọ 05 bọc, còn lại 06 bọc Th nhờ Q cất giấu. Đến khoảng 23 giờ 20 phút cùng ngày Công an huyện Châu Th tiến hành kiểm tra phòng trọ số 4, nhà trọ “Hồng Th” thu giữ 05 bọc ma túy đá và tiến hành khám xét nơi ở của Q thu giữ 06 bọc ma túy đá, cùng một số dụng cụ sử dụng ma túy và đồ vật có liên quan.
[3] Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay hoàn toàn phù hợp với nội dung vụ án, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng và còn phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
* Căn cứ kết luận giám định số 126/KLGT-PC54 ngày 08/03/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An G, kết luận:
- Mẫu M1 gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 1,3101 gam (một phẩy ba một không một gam), loại Methamphetamine.
- Mẫu M2 gửi đến giám định là ma túy, khối lượng 0,6973 gam (không phẩy sáu chín bảy ba gam), loại Methamphetamine.
Như vậy, đã có đủ có sở kết luận bị cáo Ngô Hợp Th đã trực tiếp mua 2,0074 gam ma túy, loại Methamphetamine rồi chia ra 11 bọc nhỏ và cất giấu trong sọt rác tại phòng trọ 05 bọc có tổng khối lượng 1,3101 gam và đưa cho Q 06 bọc có tổng khối lượng là 0,6973 gam Methamphetamine, để Q mang về nhà của Q cất giấu dùm thì bị bắt quả tang. Hành vi của Th và Q đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Về nhân thân: Ngô Hợp Th, ngày 22/10/2015, bị Ủy ban nhân dân xã Bình M, huyện Châu Ph quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đến ngày 05/11/2015, được gia đình bảo lĩnh. Vào ngày 22/12/2017, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Châu Ph, tỉnh An G khởi tố về tội Mua bán trái phép chất ma túy và lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú. Đến 05/3/2018 Th lại tiếp tục phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đối với Nguyễn Văn Q ngày 13/12/2017, bị Ủy ban nhân dân xã Bình M, huyện Châu Ph đưa vào Cơ sở chữa bệnh bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đến ngày 27/12/2017, được gia đình bảo lĩnh.
Theo cáo trạng Viện kiểm sát quyết định truy tố các bị cáo để xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi trái pháp luật đã gây ra.
[4] Xét tính nguy hiểm cho xã hội từ hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy:
Ma túy là tác nhân gây nên những tác hại to lớn đối với con người và cộng đồng xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm hình sự nguy hiểm cho xã hội, vắt cạn kiệt nguồn nhân lực, tài chính, làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui hạnh phúc của nhiều gia đình. Do vậy, việc đấu tranh và phòng ngừa các tội phạm về ma túy là trách nhiệm của toàn xã hội. Bản thân các bị cáo đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực hành vi, lẽ ra các bị cáo phải nhận thức được điều này, mà có ý thức tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành, góp phần làm lành mạnh hóa đời sống xã hội, giữ vững trật tự trị an ở địa phương. Tuy nhiên, với ý thức chấp hành pháp luật kém, thiếu ý chí rèn luyện, các bị cáo sa ngã vào con đường nghiện ngập chất ma túy. Các bị cáo đã có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, là loại ma túy tổng hợp Methamphetamine, có trọng lượng: 2,0074 gam. Song nhờ ý thức cảnh giác của quần chúng nhân dân và các cơ quan chức năng nên hành vi phạm tội của các bị cáo mới bị phát hiện và bị bắt.
Hành vi trái pháp luật của các bị cáo đã xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc sản xuất, quản lý và sử dụng các chất ma túy, gây thiệt hại cho lợi ích của xã hội, của công dân, gây mất trật tự trị an ở địa phương và gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội cần phải xử lý nghiêm minh mới đủ sức răn đe và đấu tranh phòng ngừa chung trong xã hội.
Trong vụ án này, bị cáo Th là người có vai trò chính trong việc thực hiện hành vi phạm tội, Th là người trực tiếp mua 2,0074 gam ma túy đá về phân chia, cất giấu tại phòng trọ 1,3101 gam, còn bị cáo Q có vai trò đồng phạm giúp sức, đem về nhà cất giấu cho Th 0,6973 gam. Do đó, bị cáo Th phải chịu mức án cao hơn bị cáo Q.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Th và Q đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo thuộc thành phần nhân dân lao động nghèo, Th chỉ học đến lớp 4 và nuôi con dưới 36 tháng tuổi, còn Q chỉ học đến lớp 6 nên hiếu biết về pháp luật có phần còn hạn chế. Do đó, cần cho các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Đối với người “tên L” mua chất ma túy dùm cho Th và người thanh niên đem giao ma túy cho Th do không rõ nhân thân lai lịch nên cơ quan điều tra không làm việc được.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Nguyễn Anh Th, cho biết: Th có đứng tên đăng ký xe mô tô biển số 67C1-311.73, xe do Th mua vào năm 2015, xe để sử dụng cho gia đình. Vào ngày 05/3/2018 do Q là cha ruột của Th mượn xe đi công việc cho gia đình, việc Q cất giấu ma túy tại nhà dùm cho Th thì Th hoàn toàn không biết. Nay chị Th yêu cầu được nhận lại xe và một giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 67C1- 311.73 mang tên Nguyễn Anh Th. Đối với số tiền 10.000.000đ chị đã nhận lại xong nên không có yêu cầu.
[5] Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 08/QĐ.VKSCT-HS, ngày 25/6/2018 gồm:
- Một hộp niêm phong (ký hiệu số 1), bên ngoài có ghi dòng chữ CÔNG AN TỈNH AN G, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, NIÊM PHONG Vụ: 126/KLGT-PC54 ngày 08/03/2018, có in hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An G và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H, Nguyễn Đăng Kh, Huỳnh Đình Kh, bên trong có mẫu vật còn lại sau giám định, có khối lượng 1,1844 gam Methamphetamine và một hộp niêm phong (ký hiệu số 2), bên ngoài có ghi dòng chữ CÔNG AN TỈNH AN G, PHÒNG KỸ THUẠT hình sự, NIÊM PHONG Vụ: 126/KLGT-PC54 ngày 08/03/2018, có in hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An G và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H, Nguyễn Đăng Kh, Huỳnh Đình Kh, bên trong có mẫu vật còn lại sau giám định, có khối lượng 0,5993 gam Methamphetamine; một sọt rác màu trắng - xanh; một cây kéo bằng kim loại màu trắng; một chai nước suối Vina bên trong có 01 đoạn ống hút; hai nắp chai đục lỗ, có gắn ống hút; bốn bật lửa đã qua sử dụng; một nỏ thủy tinh; hai đoạn ống hút nhựa; bảy ống thủy tinh; một tượng hình ông địa bằng sứ màu vàng - trắng; hai mươi hai bọc nilon màu trắng hở hai đầu; bốn mươi bọc nilon trắng có viền màu đỏ một đầu; ba ống nỏ thủy tinh, không có giá trị sử dụng. Nghĩ nên tịch thu tiêu hủy.
- Một phong bì, bên ngoài có ghi chữ Vụ 139/KLGT-PC54 ngày 23/03/2018, in hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh An G và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H, Nguyễn Đăng Kh, Nguyễn Hồng K, bên trong có 01 điện thoại di động SAMSUNG J7+ màu đen, 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu gold.
Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu gold là của Th sử dụng vào việc phạm tội. Nghĩ nên tịch thu sung quỹ nhà nước.
Đối với 01 điện thoại di động SAMSUNG J7+ màu đen và một giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn Q, là tài sản của Q, không có liên quan đến vụ án. Nghĩ nên trả lại cho Q là hoàn toàn phù hợp.
- Một xe môtô nhãn hiệu HONDA, loại VISION, màu xám, biển số 67C1 - 311.73; số máy JF58E0263084; số khung 5806EY26299 và một giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 67C1-311.73 mang tên Nguyễn Anh Th, là tài sản của chị Th, không có liên quan đến vụ án. Nghĩ nên trả lại cho chị Th là hoàn toàn phù hợp.
- Tiền Việt Nam của Ngô Họp Th 300.000 đồng và Nguyễn Văn Q 4.750.000 đồng, hiện đang tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước huyện Châu Th, tỉnh An G, không có liên quan đến vụ án. Nghĩ nên trả lại cho Th và Q là hoàn toàn phù hợp. Nhưng giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Th tiếp tục tạm giữ, xử lý trong giai đoạn Thi hành án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
- Tuyên bố: Các bị cáo Ngô Hợp Th và Nguyễn Văn Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy
Xử phạt: Bị cáo Ngô Hợp Th 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/3/2018.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Q 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 06/3/2018.
Căn cứ vào Điều 47, 48 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy: Một hộp niêm phong (ký hiệu số 1), bên ngoài có ghi dòng chữ CÔNG AN TỈNH AN G, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, NIÊM PHONG Vụ: 126/KLGT-PC54 ngày 08/03/2018, có in hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An G và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H, Nguyễn Đăng Kh, Huỳnh Đình Kh, bên trong có mẫu vật còn lại sau giám định, có khối lượng 1,1844 gam Methamphetamine và một hộp niêm phong (ký hiệu số 2), bên ngoài có ghi dòng chữ CÔNG AN TỈNH AN G, PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ, NIÊM PHONG Vụ: 126/KLGT-PC54 ngày 08/03/2018, có in hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh An G và các chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Mỹ H, Nguyễn Đăng Kh, Huỳnh Đình Kh, bên trong có mẫu vật còn lại sau giám định, có khối lượng 0,5993 gam Methamphetamine; một sọt rác màu trắng - xanh; một cây kéo bằng kim loại màu trắng; một chai nước suối Vina bên trong có 01 đoạn ống hút; hai nắp chai đục lỗ, có gắn ống hút; bốn bật lửa đã qua sử dụng; một nỏ thủy tinh; hai đoạn ống hút nhựa; bảy ống thủy tinh; một tượng hình ông địa bằng sứ màu vàng - trắng; hai mươi hai bọc nilon màu trắng hở hai đầu; bốn mươi bọc nilon trắng có viền màu đỏ một đầu; ba ống nỏ thủy tinh.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu gold.
- Trả lại cho Nguyễn Văn Q: 01 điện thoại di động SAMSUNG J7+ màu đen và một giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Văn Q.
- Trả lại cho Nguyễn Anh Th: Một xe môtô nhãn hiệu HONDA, loại VISION, màu xám, biển số 67C1-311.73; số máy JF58E0263084; số khung 5806EY26299 và một giấy chứng nhận đăng ký xe biển số 67C1-311.73 mang tên Nguyễn Anh Th.
- Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Th tiếp tục tạm giữ, xử lý trong giai đoạn Thi hành án: Tiền Việt Nam của Ngô Hợp Th 300.000 đồng và Nguyễn Văn Q 4.750.000 đồng, hiện đang tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước huyện Châu Th, tỉnh An G.
- Về án phí:
Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Th và Q mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo Th, Q và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án ngày 31/7/2018.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 08/2018/HS-ST ngày 31/07/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 08/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/07/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về