TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRIỆU SƠN – TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 08/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/01/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 24/01/2018,tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Triệu Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự: “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” thụ lý số 351/2017/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 11 năm 2017, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/12/2017 và Quyết định hoàn phiên tòa số 02 ngày 10/01/2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Lê Thị Th - Sinh năm 1990, có mặt
Bị đơn: Anh Trần Văn H - Sinh năm 1983, vắng mặt.
Đều ĐKHKTT và chổ ở hiện nay: Số nhà M, phố B, thị trấn T, huyện S, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*> Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Lê Thị Th trình bày: Chị và anh H, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 06/01/2012 tại UBND xã thị trấn T, huyện S, sống chung đến tháng 12/2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H đi làm xa, sống với người phụ nữ khác như vợ chồng và đã có con riêng, không quan tâm gì tới vợ con, chị Th động viên, khuyên can anh H không nghe, từ đầu năm 2013 đến nay vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai, nay chị Th xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung cháu Trần Lê Hồng A, sinh ngày 17/10/2012, từ khi vợ chồng ly thân, cháu Hồng A ở với chị Th, anh H không quan tâm hỏi han gì, nay vợ chồng ly hôn chị Th xin trực tiếp nuôi dưỡng và yêu cầu anh Hưng cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000đ.
Về tài sản và nợ: Chị Th không yêu cầu giải quyết.
*> Đối với anh Trần Văn H, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh H nhưng anh H không có ý kiến gì cũng không đến Tòa án làm việc, do vậy Tòa án không làm việc được với anh H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đối với bị đơn anh Trần Văn H, Tòa án đã tống đạt hơp lệ các văn bản tố tụng cho anh H và ngày 10/01/2018, Tòa án đưa vụ án ra xét xử nhưng anh Hưng vắng mặt nên Tòa án đã Quyết định hoãn phiên tòa và đã tống đạt hợp lệ Quyết định hoãn phiên tòa cho anh H nhưng tại phiên tòa hôm nay anh H vẫn vắng mặt, căn cứ khoản 1 Điểu 207 và khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành giải quyết, xét xử vụ án.
[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị Th và anh Trần Văn H, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 06/01/2012 tại UBND thị trấn Triệu Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa nên là hôn nhân hợp pháp, vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm và do anh H có tình cảm với người phụ nữ khác, bỏ mặc vợ con, từ năm 2013 đến nay không quan tâm gì, Tòa án báo hòa giải nhiều lần nhưng anh H bỏ mặc, không có ý kiến gì, như vậy vợ chồng không còn tình cảm, mâu thuẫn đã trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chị Thương xin ly hôn anh H là có căn cứ, phù hợp với tình trạng hôn nhân của vợ chồng, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Th, xử cho chị Th được ly hôn anh H.
[3] Về con chung: Vợ chồng có một con chung cháu Trần Lê Hồng A, sinh ngày 17/10/2012, từ khi vợ chồng ly thân năm 2013 và quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án báo hòa giải nhiều lần, anh H vẫn không có mặt mà bỏ mặc trách nhiệm nuôi con cho chị Th, nay chị Th xin trực tiếp nuôi con và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con mức 1.000.000đ một tháng là có căn cứ, phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình, nên chấp nhận, giao chị Th trực tiếp nuôi con chung vợ chồng cháu Trần Lê Hồng A, sinh ngày 17/10/2012, anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị Th mỗi tháng 1.000.000đ, kể từ tháng 01/2018 cho đến khi cháu Hồng A đủ 18 tuổi, vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con,anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con, không ai được ngăn cản.
[4] Về tài sản, nợ: Chị Th trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không nợ ai,chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh H cũng không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Chị Th phải chịu án phí ly hôn và anh H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Vì các lý lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 4 Điều 147, Điều 273,280 của Bộ luật tố Tụng dân sự; Khoản 1 Điều 56, Điều 81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a, khoản 1 Điều 24, điểm a, khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị Th được ly hôn anh Trần Văn H.
Về con chung: giao chị Th trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Lê Hồng A, sinh ngày 17/10/2012, anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cùng chị Th mỗi tháng 1.000.000đ, kể từ tháng 01/2018 cho đến khi cháu Hồng A đủ 18 tuổi, vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người nuôi con và mức cấp nuôi con, anh H được quyền và nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.
Về tài sản, công nợ: Không có, các đương sự không yêu cầu tòa giải quyết.
Về án phí: Anh chị Lê Thị Th phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng theo biên lai thu tiền số AA/2016/0003094 ngày 10/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa, chị Lê Thị Th đã nộp đủ án phí. Anh H phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi conlà 300.000đ.
Án xử công khai, nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.
Bản án 08/2018/HNGĐ-ST ngày 24/01/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 08/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Triệu Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 24/01/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về