Bản án 08/2017/HSST ngày 08/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM PỒ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 08/2017/HSST NGÀY 08/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 08 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyên Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên; Mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 09/2017/HSST ngày 17/10/2017 đối với bị cáo:

Lò Văn T sinh năm: 1982 tại huyện MC – Điện Biên.

Trú tại: Bản T xã MT, huyện MC, tỉnh Điện Biên; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12; Bố đẻ: Lò Văn A (đã chết); mẹ đẻ: Lò Thị C; Vợ là: Phạm X sinh năm: 1982; Bị cáo có 01 con sinh năm 2015; Bị cáo có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ nhất;

Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị bắt ngày 07/6/2017, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lò Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Pồ truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 13 giờ 00 phút ngày 07/6/2017, tổ công tác Công an huyện Nậm Pồ phối hợp với Đồn Công an xã C đang làm nhiệm vụ tại bản M2 xã C, huyện Nậm Pồ đã phát hiện Lò Văn T điều khiển xe máy biển kiểm soát 26G1-020.25 nhãn hiệu HONDA màu nâu chạy từ hướng N đi CT có nhiều biểu hiện nghi vấn vi phạm pháp luật. Tổ công tác đã yêu cầu Lò Văn T dừng lại kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần bên phải Lò Văn T đang mặc có 01 gói ni lông màu xanh bên trong có chất bột dạng nén màu trắng đục nghi là heroin. Lò Văn T khai nhận đó là heroin do Toàn mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng vụ án.

Tại biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng ngày 09/6/2017 của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Nậm Pồ số vật chứng thu giữ của Lò Văn T có trọng lượng 6,57 gam.

Tại bản kết luận giám định số 546/GĐ - PC54 ngày 06/7/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu vật gửi giám định được trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T là chất ma túy: Loại heroin.

Bản cáo trạng số: 70/QĐ-VKS-HS ngày 16 tháng 10 năm 2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên truy tố bị can Lò Văn T về tội:

Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm h khoản 2 Điều 194/BLHS.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Pồ thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 7 và điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 và điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/NQ-QH14 ngày 20/6/2017 Về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14; Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 194 và điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS, xử phạt Lò Văn T mức án từ 06 năm đến 06 năm 06 tháng tù; Áp dụng Điều 41/BLHS và Điều 76/BLTTHS để xử lý vật chứng; Không đề suất áp dụng hình phạt bổ sung và án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.

XÉT THẤY

Bị cáo Lò Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hồi 13 giờ 00 phút ngày 07/6/2017, bị cáo Lò Văn T đã bị tổ công tác Công an huyện Nậm Pồ và Đồn Công an xã C bắt quả tang đang điều khiển xe máy biển kiểm soát 26G1-020.25 có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, vật chứng thu giữ 6,57 gam heroin với mục đích để sử dụng cho bản thân. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Lò Văn T đã có hành vi phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 194/BLHS.

Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý về các chất ma tuý của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ buôn bán “ Cái chết trắng” làm giàu bất chính và gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bị cáo Lò Văn T là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật do bị cáo nghiện ma túy nên bị cáo đã cố tình phạm tội. Vì vậy để góp phần đẩy lùi tệ nạn ma túy và các tệ nạn xã hội khác, cần phải xử lý nghiêm đối với hành vi phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo Lò Văn T phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và chịu mức hình phạt tương xứng về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

Xét nhân thân: Bị cáo Lò Văn T sinh ra và lớn lên tại huyện MC - Điện Biên, được học lớp 12/12, từ năm 2002 đến năm 2005 nhập ngũ đóng quân tại xã K–MT –Lai Châu, sau đó ra quân về sinh sống tại địa phương. Do không chịu rèn luyện bản thân nên bị cáo T đã mắc nghiện ma túy và phạm tội trong vụ án này. HĐXX xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS. Căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 7 và điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41/2017/NQ-QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 để xử lý bị cáo theo hướng có lợi.

Xét hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 194 BLHS, xét thấy bị cáo Lò Văn T là người nghiện ma túy, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có khả năng thi hành nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo T do không rõ tên tuổi và địa chỉ nên không đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự.

Vật chứng vụ án: gồm 6,57 gam heroin (Đã trích mẫu gửi giám định không hoàn lại là 0,3 gam), 01 xe máy biển kiểm soát 26G1-020.25 nhãn hiệu HONDA màu nâu, 01 giấy đăng ký xe mang tên Phạm X, 01 giấy phép lái xe mang tên Lò Văn T, 01 điện thoại di động màu vàng nhãn hiệu NOKIA và số tiền 290.000đ. Quá trình điều tra đã làm rõ chiếc xe máy là của Phạm X sinh năm 1982, trú tại bản T xã MT, huyện MC là vợ của bị cáo T. Số tiền và điện thoại di động của T nhưng không liên quan gì đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định và tiến hành trao trả toàn bộ cho chị X vào ngày 13/7/2017 nên HĐXX không đề cập xem xét. Cần căn cứ điểm c khoản 1 Điều 41 BLHS và điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS, tuyên tịch thu tiêu hủy số heroin.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 99 BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 và khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14; Bị cáo Lò Văn T xin miễn án phí Hình sự sơ thẩm do gia đình bị cáo là hộ nghèo năm 2017 nên được miễn án phí HSST.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 194 và điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS; khoản 3 Điều 7 và điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 Về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14:

Xử phạt bị cáo Lò Văn T 06 (Sáu) năm tù, kể từ ngày bắt: 07/6/2017.

2. Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41/BLHS; điểm a khoản 2 Điều 76/Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên tịch thu tiêu hủy 6,27 gam heroin theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 17/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nậm Pồ.

3. Án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS; điểm đ khoản 1 Điều 12 và khoản 6 Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14; Bị cáo Lò Văn T được miễn án phí Hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 08/2017/HSST ngày 08/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:08/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về