TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A LƯỚI, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 08/2017/HS-ST NGÀY 06/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 06 tháng 12 năm 2017, tại Hội trường trụ sở Tòa án nhân dân huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2017/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2017, đối với:
- Bị cáo: Nguyễn Q1 (tên gọi khác: C), sinh ngày 13/7/ 1992, tại xã Sơn T, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi cư trú: Thôn Quảng P, xã Sơn T, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn N, sinh năm 1962 và bà Trần Thị N, sinh năm 1962; có vợ là Trần Thị Đ, sinh năm 1990 và có 01 đứa con đang còn nhỏ (sinh năm 2013); tiền án: có 01 tiền án (ngày 14/3/2015 Nguyễn Q1 có hành vi “Trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện A Lưới xử phạt 18 tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm số 08/2015/HSST ngày 17/8/2015); tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ ngày 12/8/2017 và chuyển tạm giam từ ngày 15/8/2017 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện A Lưới; có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Anh Ngô Văn K, sinh năm 1981; trú tại: Thôn Diên M, xã A, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.
- Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Vinh Q2, sinh năm 1987; trú tại: Thôn Quảng P, xã Sơn T, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.
2. Cháu Đặng Hồng T1, sinh ngày 21/11/2003; có người đại diện theo pháp luật của người làm chứng chưa thành niên: Ông Đặng Hồng T2, sinh năm 1963; đều trú tại: Thôn Phú T, xã Phú V, huyện A, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Q1 bị Viện kiểm sát nhân dân huyện A Lưới, tỉnh ThừaThiên Huế truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Do có ý định từ trước nên khoảng 11 giờ 00 phút ngày 11-8-2017, Nguyễn Q1 một mình đi bộ từ nhà ở xã Sơn T về xã Phú V nhằm mục đích trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khi Q1 đang đi bộ trên đường Hồ Chí M theo hướng xã Sơn T về xã Phú V thì thấy anh Nguyễn Vinh Q2 đang ngồi uống nước tại một quán ven đường thuộc xã Sơn T nên Nguyễn Q1 đã nhờ Nguyễn Vinh Q2 dùng xe mô tô chở mình đi. Khi đến ngã tư Bốt Đỏ thuộc thôn Phú T, xã Phú V, huyện A, Nguyễn Q1 và Nguyễn Vinh Q2 vào quán ăn cơm trưa xong thì Nguyễn Vinh Q2 đi làm còn Nguyễn Q1 thuê ông Đặng Hồng T2 (làm nghề lái xe ôm) chở Q1 đến khu vực gần nhà bố vợ của mình là ông Trần Minh T3 (sinh năm 1939, trú tại thôn Phú T, xã Phú V, huyện A). Do ông T2 có việc nên Đặng Hồng T1 (là con trai ông T2) điều khiển xe mô tô 75L1- … chở Nguyễn Q đi. Khi đến khu vực cầu C10 thuộc địa bàn thôn Phú T, xã Phú V thì Q1 trả tiền công cho T1 là 25.000 VNĐ (Hai mươi lăm nghìn đồng), T1 nhận tiền rồi quay về lại ngã tư B. Đến khoảng 11 giờ 30 ngày 11-08-2017, Nguyễn Q1 một mình đi bộ theo đường mòn vào trong rừng tràm và phát hiện phía bên trái theo hướng từ thị trấn A đi xã Hương P có khoảng 05 (năm) đến 06 (sáu) chiếc xe mô tô để ở trong rừng và không có người trông giữ nên đã tiến đến chiếc xe mô tô mới nhất có biển kiểm soát 75L1-… thuộc sở hữu của anh Ngô Văn K nằm cách đường Hồ Chí M 24,32m. Do chìa khóa xe anh K đang cất giữ nên Q1 đã rút 02 sợi dây điện ở phía trong ổ khóa rồi nối lại với nhau, sau khi khởi động được xe, Nguyễn Q1 đã lấy và đưa vào thành phố Đ nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Trong khi tìm kiếm nơi tiêu thụ chiếc xe mô tô 75L1-080.99 thì Nguyễn Q1 bị lực lượng công an thành phố Đ kiểm tra hành chính, phát hiện chiếc xe trên do Q1 trộm cắp nên thông báo cho Cơ quan điều tra Công an huyện A Lưới biết.
Ngày 14-8-2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A Lưới đã có quyết định trưng cầu định giá tài sản số: 17/QĐ trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện A Lưới định giá tài sản sau: 01 (Một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 75L1-…, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu xanh bạc vàng.
Tại bản kết luận định giá số: 13/KLĐG-HĐ ngày 14-8-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện A Lưới xác định: 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 75L1-…, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màuxanh bạc vàng có giá trị tại thời điểm mất trộm ngày 11-8-2017 là:15.500.000 VNĐ (Mười lăm triệu năm trăm ngàn đồng).
Ngày 12-8-2017, Cơ quan điều tra Công an huyện A Lưới đã tạm giữ:01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 75L1-…, nhãn hiệu Yamaha, loạiSirius, màu xanh bạc vàng, số máy: 5C…, số khung: RLCS…. Đến ngày 22-8-2017, Cơ quan điều tra Công an huyện A Lưới đã ra quyết định xử lý vật chứng số 04/QĐ về việc trả lại cho chủ sở hữu là anh Ngô Văn K. Anh NgôVăn K đã nhận lại tài sản và không yêu cầu Nguyễn Q1 phải bồi thường gì thêm.
Tại Cáo trạng số: 10/QĐ-KSĐT ngày 23-10-2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện A Lưới đã quyết định truy tố Nguyễn Q1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 138; các điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48 Điều 33 Bộ luật hìnhsự, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù.
Bị cáo thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình như Cáo trạng đã truy tố và lời Luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo không có bào chữa gì khác, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người bị hại khai đã nhận lại số tài sản từ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A Lưới là: 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 75L1-…, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu xanh bạc vàng, số máy: 5C…, số khung: RLC…. Tài sản bị thu giữ đã nhận đủ nên không có yêu cầu gì khác về mặt dân sự.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
XÉT THẤY
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Q1 thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11 tháng 8 năm 2017, Nguyễn Q1 đã một mình lén lút trộm cắp tài sản 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 75L1-…., nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu xanh bạc vàng, số máy: 5C…, số khung: RLC… thuộc sở hữu của anh Ngô Văn K; trú tại: Thôn Diên M, xã A, huyện A, tỉnh Thiên Huế. Sau khi lấy được chiếc xe mô tô trên, Nguyễn Q1 điều khiển xe mô tô trên vào thành phố Đ tìm nơi tiêu thụ thì bị phát hiện và sau đó bị bắt giữ. Giá trị chiếc xe mô tônói trên tại thời điểm mất trộm được định giá là: 15.500.000 VNĐ (Mười lăm triệu năm trăm nghìn đồng).
Bị cáo Nguyễn Q1 là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ nhưng với động cơ tham lam, bị cáo đã có chủ đích từ trước là đi lang thang nhằm tìm kiếm, lợi dụng sự sơ hở của người khác để chiếm đoạt tài sản. Khi bị cáo đi bộ vào trong rừng tràm tại thôn Phú T, xã Phú V, thấy chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 75L1-…, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu xanh bạc vàng của anh Ngô Văn K không có ai trông giữ thì bị cáo đã chiếm đoạt với mục đích đem bán lấy tiền để tiêu xài cá nhân. Xét về mặt chủ quan, mặt khách quan, chủ thể, khách thể thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện A Lưới truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều138 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng năng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng:
Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không chịu tu dư ng, r n luyện chứng tỏ coi thường pháp luật; đã có vợ, con nhưng không gương m u mà ngược lại, thấy người khác sơ hở trong việc quản lý tài sản là tìm cách chiếm đoạt. Bị cáo có ý định đi lang thang, dò xét thấy người khác sơ hở thì thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là đã có dự mưu trước, không phải bột phát. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền s hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải xử lý nghiêm để răn đe và giáo dục, phòng ngừa chung.
Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý nên cần áp dụng tình tiết tăng nặng “tái phạm” theo quy định tại điểm g khoản 1Điều 48 Bộ luật hình sự. Tuy vậy, khi quyết định hình phạt c ng cần xem xét cho bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường sửa chữa ổ khóa xe mô tô bị hư hỏng do bị cáo gây ra; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ theo quy địnhtại các điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần xử bị cáo hình phạt tù để cách ly ra khỏi xã hội một thời gian là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Về trách nhiệm dân sự: Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt của bị hại Ngô Văn K, anh K đã nhận lại và không có yêu cầu bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về vật chứng: Trong quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A Lưới đã có Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chủ s hữu Ngô
Văn K: 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát 75L1-…, nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, màu xanh bạc vàng, số máy: 5C…, số khung: RLC… và anh K đã nhận lại tài sản, không còn vật chứng nào cần phải xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Cần áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 21 của Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1 - Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Q1 (tên gọi khác: C) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 và Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Q1 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tính từ khi bắt tạm giữ ngày 12 tháng 8 năm 2017.
2 - Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 21 của Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa, buộc bị cáo Nguyễn Q1 phải chịu 200.000 VNĐ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 08/2017/HS-ST ngày 06/12/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 08/2017/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện A Lưới - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về