Bản án 07/2021/HS-ST ngày 23/03/2021 tội lưu hành tiền giả

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 23/03/2021 TỘI LƯU HÀNH TIỀN GIẢ

Ngày 23 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

D, tên gọi khác: Heo, sinh năm 1987, tại G; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Ấp 1, xã V, huyện C, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 01/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông T, sinh năm 1959 và bà B, sinh năm 1961; vợ là K, sinh năm 1998; có 01 người con, sinh năm 2019; anh chị em ruột: 04 người;

Tiền án: Ngày 30/11/2012, Tòa án nhân dân quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh xử phạt 06 năm tù về tội Cướp giật tài sản, quy định tại điểm c, d, g, khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tiền sự: Ngày 19/4/2021, Công an xã V, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, phạt tiền 750.000 đồng.

Nhân thân:

- Ngày 16/6/2006, Tòa án nhân dân TP Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng;

- Ngày 09/12/2010, Tòa án nhân dân quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 01 tháng 25 ngày tù về tội Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/7/2020 đến ngày 23/9/2020. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/12/2020 đến ngày 28/12/2020 chuyển tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông S, sinh năm: 1959 (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt);

Nơi ĐKHKTT và chổ ở hiện nay: Ấp 4, xã V, huyện C, tỉnh Long An.

- Bà D, sinh năm: 1971 (có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt);

Nơi ĐKHKTT và chổ ở hiện nay: ấp C, xã L, huyện B, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 19/4/2020, D điều khiển xe mô tô biển số 62L1 – 360.69 của N (là em ruột của D) đến cửa hàng điện, nước, đồ gia dụng Minh Tùng, địa chỉ Ấp 4, xã V, huyện C, tỉnh Long An. Do ông S làm chủ, mua 03 bình sơn xịt (01 bình màu vàng, 01 bình màu bạc, 01 bình màu đen) loại 400ml, 01 khóa loại lục giác 14mm, 01 cuộn băng keo dán điện, 01 bù lon, con tán loại 10mm, tổng cộng 120.000 đồng. D đưa cho ông Sổ 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 500.000 đồng số seri UU 11032688 để thanh toán, ông Sổ thối lại 380.000 đồng. Sau khi D bỏ đi, ông Sổ kiểm tra tờ tiền, phát hiện không giống tiền thật nên trình báo Công an xã V và giao nộp tờ tiền.

D khai nhận: Ngày 15/4/2020, D đến phòng trọ của một người bạn tên Sol (không rõ nhân thân, lai lịch) ở nhà trọ Thành Nam thuộc phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. D nhờ Sol đến tiệm cầm đồ Khánh Ái Linh, địa chỉ Kiốt số 4+5, 59/2, Khu phố 1B, phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương cầm 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1S với số tiền 1.000.000 đồng và dùng số tiền này mua 2.500.000 đồng tiền giả của một người tên Hiếu (không rõ nhân thân, lai lịch). Ngoài ra trước đó bạn của Sol có cho D 01 tờ tiền giả mệnh giá 500.000 đồng.

Ngày 18/4/2020, D từ Bình Dương về nhà tại Ấp 1, xã V, huyện C, tỉnh Long An, D sử dụng 300.000 đồng tiền giả có mệnh giá 100.000 đồng để mua đồ ăn, nước uống nhưng không nhớ rõ đã mua ở những cửa hàng nào.

Sáng ngày 19/4/2020, D điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 34L9 – 5846 đến cửa hàng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật Trọng Khách, địa chỉ ấp C, xã L, huyện B, tỉnh Long An do bà D làm chủ mua 01 bao thức ăn gà với giá 255.000 đồng, D sử dụng 01 tờ tiền giả mệnh giá 200.000 đồng có số seri AD 07730195 và 55.000 đồng tiền thật để trả cho bà Duyên. Bà Duyên tự nguyện giao nộp tờ tiền giả trên cho cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện C.

Sau khi ông S tố giác về hành vi lưu hành tiền giả, D đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện C gồm: 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 500.000 đồng, số seri UU 11032688; 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng, số seri AD 07730195; 02 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng, cùng số seri GS 11617493; 09 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng, cùng số seri LH 16804484.

Tại bản kết luận giám định số: 328/2020/KLGĐ ngày 11/5/2020, của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Long An kết luận:

- 02 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 500.000 đồng, cùng số seri UU 11032688 là tiền giả;

- 04 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 200.000 đồng (02 tờ cùng số seri GS 11617493, 02 tờ cùng số seri AD 07730195) là tiền giả;

- 09 tờ tiền Việt Nam mệnh giá 100.000 đồng, cùng số seri LH 16804484 là tiền giả.

Tại Cáo trạng số: 05/CT-VKSLA-P1 ngày 01/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đã truy tố D về tội “Lưu hành tiền giả” theo khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C được Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phân công thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự giữ nguyên cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 207, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo D từ 03 đến 04 năm tù. Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với:

- 02 tờ tiền Việt Nam giả mệnh giá 500.000 đồng, cùng số seri UU 11032688;

- 04 tờ tiền Việt Nam giả mệnh giá 200.000 đồng (02 tờ cùng số seri GS 11617493, 02 tờ cùng số seri AD 07730195);

- 09 tờ tiền Việt Nam giả mệnh giá 100.000 đồng, cùng số seri LH 16804484.

Đối với xe mô tô Wave màu đỏ, biển số 34L9 – 5846 là phương tiện bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo khai nhận xe mô tô trên do bị cáo mua nhưng không có giấy tờ mua bán cũng như không có giấy đăng ký xe nên đề nghị chuyển Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Long an tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị trả lại cho ông S số tiền 380.000 đồng mà bị can thu lợi từ việc sử dụng tiền giả mua đồ tại cửa hàng ông Sổ và trả lại cho bị cáo D số tiền 55.000 đồng mà bị cáo sử dụng mua bao thức ăn gà.

Tại phiên tòa bị cáo: D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã nêu và đồng ý với các quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An truy tố bị cáo về tội “Lưu hành tiền giả” là đúng người, đúng tội, không oan, bị cáo không tranh luận.

Bị cáo D nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng: Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ, kết luật giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thu thập trong tố tụng hình sự có đủ cơ sở xác định: Do không có nghề nghiệp ổn định, không có tiền tiêu xài nên D nhờ người bạn tên Sol (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 2.500.000 đồng tiền giả của người tên Hiếu (không rõ nhân thân, lai lịch). Ngày 18,19/4/2020, D sử dụng số tiền giả trên cùng với 500.000 đồng do bạn của Sol cho, lưu hành 300.000 đồng trên đường từ Bình Dương về Long An và tại địa bàn huyện C, B 700.000 đồng.

Hành vi của D đủ yếu tố cấu thành tội “Lưu hành tiền giả” theo quy định tại khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đã truy tố bị cáo D ra trước Tòa án nhân dân huyện C để xét xử về tội danh và điều luật trên là có căn cứ.

[3] Căn cứ quyết định hình phạt:

[3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo D có 01 tiền án về tội cướp giật tài sản với tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội nên được xem là tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[3.3] Về áp dụng hình phạt:

[3.3.1] Về hình phạt chính: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lưu hành tiền giả là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến trật tự quản lý tài chính, ngân hàng của nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ; gây hoang mang, lo lắng trong nhân dân; gây lũng đoạn lĩnh vực tiền tệ của nhà nước. Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng. Mặt khác, bị cáo có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị xử phạt tù và cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo nhưng bị cáo không sửa đổi bản thân thành người có ích mà vẫn tiếp tục phạm tội nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm và tiếp tục cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để tiếp tục răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3.3.2] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy đối với: 02 tờ tiền Việt Nam giả mệnh giá 500.000 đồng, cùng số seri UU 11032688; 04 tờ tiền Việt Nam giả mệnh giá 200.000 đồng (02 tờ cùng số seri GS 11617493, 02 tờ cùng số seri AD 07730195); 09 tờ tiền Việt Nam giả mệnh giá 100.000 đồng, cùng số seri LH 16804484.

Đối với xe mô tô Wave màu đỏ, biển số 34L9 – 5846 là phương tiện bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo khai nhận xe mô tô trên do bị cáo mua nhưng không có giấy tờ mua bán cũng như không có giấy đăng ký xe nên chuyển Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Long an xử lý theo quy định của pháp luật.

Trả lại cho ông S số tiền 380.000 đồng; trả lại cho bị cáo D số tiền 55.000 đồng nhưng cho chuyển qua tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về án phí: Bị cáo D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp dụng khoản 1 Điều 207; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[2] Tuyên bố bị cáo D phạm tội “Lưu hành tiền giả”.

[3] Xử phạt bị cáo D 04 (Bốn) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/12/2020.

[4] Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam bị cáo D 45 ngày kể từ ngày tuyên án (23/3/3021) để đảm bảo thi hành án.

[5] Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 02 tờ tiền Việt Nam giả mệnh giá 500.000 đồng, cùng số seri UU 11032688; 04 tờ tiền Việt Nam giả mệnh giá 200.000 đồng (02 tờ cùng số seri GS 11617493, 02 tờ cùng số seri AD 07730195); 09 tờ tiền Việt Nam giả mệnh giá 100.000 đồng, cùng số seri LH 16804484.

Giao xe mô tô Wave màu đỏ, biển số 34L9 – 5846 cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an tỉnh Long an xử lý theo quy định của pháp luật.

Trả lại cho ông S số tiền 380.000 đồng; trả lại cho bị cáo D số tiền 55.000 đồng cho chuyển qua án phí hình sự sơ thẩm. (Các vật chứng nêu trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C theo Quyết định chuyển vật chứng số 43/QĐ-VKSLA- P1 ngày 01/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/3/2021).

[7] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp vào ngân sách nhà nước. Được khấu trừ 55.000 đồng tiền bị tạm giữ (theo Quyết định chuyển vật chứng số 43/QĐ-VKSLA- P1 ngày 01/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/3/2021), bị cáo còn phải nộp tiếp 145.000 đồng.

[8] Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định của Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

510
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HS-ST ngày 23/03/2021 tội lưu hành tiền giả

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Đước - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về