Bản án 07/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 07/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 240/2020/HSST, ngày 30/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/HSST-QĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: TỪ A Giới tính: nam. Tên gọi khác: không.

Sinh ngày: 23/3/1995 Tại: Khánh Hòa.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: khu phố B, phường C, thành phố PT, tỉnh BT.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 1/12.

Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Cha: ông Từ D, sinh năm 1971; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Mẹ: bà Nguyễn Thị Ngọc E, sinh năm 1969; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Cùng trú tại: khu phố B, phường C, thành phố PT, tỉnh BT.

Vợ, con: chưa có.

Anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: ngày 04/01/2020 thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu phố F, phường C, thành phố PT, đến ngày 13/5/2020 bị khởi tố bị can về hành vi nói trên. Hiện đang được xử lý trong một vụ án khác.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố PT.

2. Họ và tên: NGUYỄN HỮU I, Tên gọi khác: J; Giới tính: nam.

Sinh ngày: 05/9/1991 Tại: BT.

Nơi ĐKHECTT và chỗ ở: khu phố K, phường L, thành phố PT, tỉnh BT.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: không.

Cha: không rõ.

Mẹ: bà Nguyễn Thị Thùy M, sinh năm 1971, Nghề nghiệp: nội trợ.

Trú tại: khu phố K, phường L, thành phố PT, tỉnh BT.

Anh chị em ruột có 03 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.

Vợ: Nguyễn Nhị N; Sinh năm: 1992; Nghề nghiệp: nội trợ.

Con có 01 con, sinh năm 2015.

Chỗ ở hiện nay: hẻm O đường P, phường C, thành phố PT.

- Tiền án: ngày 07/9/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố PT xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 110/2017/HSST. Bị cáo chấp hành xong án phạt tù vào ngày 11/6/2018, chưa thực hiện xong việc đóng án phí và bồi thường dân sự. Chưa được xóa án tích.

- Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/8/2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an thành phố PT.

Bị hại: Anh Nguyễn Thành Q, sinh năm 1993 (Vắng mặt)

Nơi cư trú: thôn R, xã S, huyện T, BT.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Thanh U, sinh năm 1993 (Vắng mặt)

Nơi cư trú: V, phường W, thành phố PT, BT.

Người làm chứng: Anh Lâm Định X, sinh năm 1991 (Vắng mặt)

Nơi cư trú: khu phố K, phường C, thành phố PT, BT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 12/8/2020, Từ A (sinh năm: 1995; trú tại: khu phố B, phường C, thành phố PT) nhắn tin bằng điện thoại di động qua mạng xã hội Zalo với tài khoản tên “Y” cho Nguyễn Hữu I (tên gọi khác J; sinh năm: 1991; trú tại: khu phố K, phường L, thành phố PT) có tên tài khoản Zalo là: “Người Lạ” với nội dung: “Đi kiếm điện thoại xài bạn ơi, điện thoại tui hư rồi”. Khi nhận được tin nhắn của A thì I hiểu ý là A muốn rủ mình đi kiếm tài sản sơ hở để cướp giật nên I đồng ý và nhắn tin trả lời là: “chờ bé Z về đã rồi tui chạy lên”. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, I điều khiển xe môtô hiệu Winner màu đỏ đen, biển số 860- XXX.26 đến nhà của A tại khu phố B, phường C và chở A đi lòng vòng trong khu vực thành phố PT tìm kiếm tài sản sơ hở để cướp giật. Khoảng 16 giờ 40 phút cùng ngày, khi đi đến đường CC thuộc khu phố F, phường Â, thành phố PT, A thấy anh Nguyễn Thành BB (sinh năm: 1993; trú tại thôn R, xã S, huyện T) đang đứng trước số nhà 04, đường CC, trên tay anh Q cầm một chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, màu vàng. Lúc này, A nói với I: “Ông kia cầm điện thoại, quay lại bạn”, khi nghe A nói vậy thì I hiểu là quay xe mô tô lại để cướp giật chiếc điện thoại nói trên và đồng ý điều khiển xe mô tô quay lại, áp sát anh Q rồi A ngồi sau xe mô tô dùng tay phải nhanh chóng giật chiếc điện thoại di động mà anh Q đang cầm trên tay, khi thấy A đã giật được điện thoại, I điều khiển xe mô tô tăng ga bỏ chạy thoát. Sau đó, I chở A về nhà của A tại khu phố B, phường C ngồi đợi, còn I cầm điện thoại di động vừa cướp giật được đến bán cho Nguyễn Thanh DD (tên thường gọi EE; sinh năm: 1993; trú tại: V, phường w, thành phố PT) với giá là 12.500.000 đồng. Nhưng khi về gặp A thì I nói với A là chỉ bán chiếc điện thoại di động được số tiền 7.000.000 đồng nên chia cho A số tiền: 3.500.000 đồng và I được số tiền: 9.000.000 đồng, I và A đã tiêu xài hết.

Qua nguồn tin quần chúng nhân dân cung cấp và trinh sát địa bàn xác định Từ A và Nguyễn Hữu I có liên quan đến vụ cướp giật tài sản nói trên. Nên Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an thành phố PT đã đua A và I về trụ sở để làm rõ. Tại Cơ quan điều tra A và I thừa nhận hành vi cướp giật tài sản của mình, đồng thời chỉ nơi đã bán tài sản để cơ quan điều tra tiến hành thu giữ vật chứng.

Nguyễn Thanh U sau khi mua chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max từ Nguyễn Hữu I đã đua chiếc điện thoại di động này đến tiệm điện thoại di động của anh Lâm Định EE (sinh năm: 1991; trú tại: khu phố K, phường C, thành phố PT) để gửi và cắm sạc. Sau đó, Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an thành phố PT đã mời X đến trụ sở để làm việc và X đã tự nguyện giao nộp lại chiếc điện thoại trên.

Cơ quan CSĐT - Công an TP. PT đã thu giữ các vật chứng gồm:

-01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max-Số Imei: 353895108252251, do Lâm Định X giao nộp.

-01 (một) vỏ hộp điện thoại di động hiệu Apple Iphone 11 Pro Max, vỏ hộp màu đen phía sau có Imei: 353895108252251 và 01 hóa đơn bán hàng, thu giữ từ anh Nguyễn Thành Q.

-01(một) xe mô tô hiệu Winner, biển số 86C1-XXX.26; số máy: KC26E1077770; số khung: RLHKC2607GY063305 và 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi số Imei: 862860045848136, thu giữ từ Nguyễn Hữu I.

Tại kết luận định giá số 190/KL-HDĐG ngày 04/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP. PT, kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max-Số IMEI: 353895108252251 trị giá: 25.360.000 đồng.

Về xử lý vật chứng và dân sự:

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra-Công an thành phố PT đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc chiếc điện thoại di động và vỏ hộp hiệu Iphone 11 Pro Max-Số Imei: 353895108252251 cho chủ sở hữu, anh Nguyễn Thành Q đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Anh Nguyễn Thanh U không yêu cầu các bị cáo Từ A và Nguyễn Hữu I trả lại 12.500.000 đồng đã bỏ ra mua chiếc điện thoại di động.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Winner, gắn biển kiểm soát 86C1-XXX.26; số máy: KC26E1077770; số khung: RLHKC2607GY063305. Quá trình điều tra bị cáo I khai nhận mua của một đối tượng tên FF (không rõ nhân thân) với giá 20.000.000 đồng, khi mua không làm giấy tờ mua bán. Qua xác minh xe mô tô hiệu Winner, số máy: KC26E1077770; số khung: RLHKC2607GY063305 được cấp cho anh Phạm Văn GG (trú tại ấp HH, xã II, huyện JJ, tỉnh KK). Còn biển số xe mô tô 86C1-XXX.26 được cấp cho chiếc xe Sirius màu đỏ đen, do anh Phạm Thành A (sinh năm 1981; trú tại V, phường L, thành phố PT) làm chủ, anh A khai nhận khoảng tháng 6/2020 có cho một đối tượng tên “Cúc” mượn xe sau đó không trả lại cho anh. Do đó Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an thành phố PT tiếp tục tạm giữ để điều tra, làm rõ và xử lý sau.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi số Imei: 862860045848136, được thu giữ từ Nguyễn Hữu I là vật chứng liên quan đến việc thực hiện tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến kho tang vật của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố PT bảo quản, chờ xử lý tiếp theo.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT:

Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng số 230/CT/VKS-PT, ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Từ A, Nguyễn Hữu I phạm tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Áp dụng: điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Từ A từ 3 năm 6 tháng đến 4 năm 6 tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 14/8/2020.

Áp dụng: điểm d khoản 2 Điều 171, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu I 3 năm 6 tháng đến 4 năm 6 tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 14/8/2020.

Biện pháp tư pháp:

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Winner, gắn biển số 86C1-XXX.26; số máy: KC26E1077770; số khung: RLHKC2607GY063305. Quá trình điều tra bị cáo I khai nhận mua của một đối tượng tên Bi (không rõ nhân thân) với giá 20.000.000 đồng, khi mua không làm giấy tờ mua bán. Qua xác minh xe mô tô hiệu Winner, Số máy: KC26E1077770; số khung: RLHKC2607GY063305 được cấp cho anh Phạm Văn GG (trú tại ấp HH, xã II, huyện JJ, tỉnh KK). Còn biển số xe mô tô 86C1-XXX.26 được cấp cho chiếc xe Sirius màu đỏ đen do anh Phạm Thành A (sinh năm 1981; trú tại V, phường L, thành phố PT) làm chủ, anh A khai nhận khoảng tháng 6/2020 có cho một đối tượng tên “Cúc” mượn xe sau đó không trả lại cho anh. Do đó Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an thành phố PT tiếp tục tạm giữ để điều tra, làm rõ và xử lý sau.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi số Imei: 862860045848136, được thu giữ từ Nguyễn Hữu I là vật chứng liên quan đến việc thực hiện tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến kho tang vật của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố PT bảo quản, chờ xử lý tiếp theo.

Các bị cáo không trình bày lời bào chữa cũng như không có ý kiến về bản luận tội của Viện kiểm sát đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT.

Các bị cáo thấy hành vi phạm tội là sai mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo được hưởng mức án thấp để sớm trở về với gia đình.

* Ý kiến của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Thanh u không yêu cầu các bị cáo Từ A và Nguyễn Hữu I trả lại 12.500.000 đồng đã bỏ ra mua chiếc điện thoại di động mà các bị cáo đã cướp giật bán cho U, về hình sự không yêu cầu gì.

* Ý kiến của người bị hại:

Anh Nguyễn Thành Q không yêu cầu các bị cáo Từ A và Nguyễn Hữu I bồi thường gì thêm về dân sự, về hình sự đề nghị xử phạt các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân dân thành phố PT: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo Từ A, Nguyễn Hữu I đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 230/CT/VKS-PT, ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT đã truy tố. Các bị cáo khẳng định những lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện đúng sự thật, các bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oan cho các bị cáo. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận, khoảng 12 giờ ngày 12/8/2020, Từ A nhắn tin bằng điện thoại di động qua mạng xã hội Zalo với tài khoản tên “Y” cho Nguyễn Hữu I (tên gọi khác J) có tên tài khoản Zalo là: “Người Lạ” với nội dung: “Đi kiếm điện thoại xài bạn ơi, điện thoại tui hư rồi”. Khi nhận được tin nhắn của A thì I hiểu ý là A muốn rủ mình đi kiếm tài sản sơ hở để cướp giật nên I đồng ý và nhắn tin trả lời là: “chờ bé Z về đã rồi tui chạy lên”. Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, I điều khiển xe môtô hiệu Winner màu đỏ đen, biển số 86C1- XXX.26 đến nhà của A và chở A đi lòng vòng trong khu vực thành phố PT tìm kiếm tài sản sơ hở để cướp giật. Khoảng 16 giờ 40 phút cùng ngày, khi đi đến đường cc thuộc khu phố F, phường Â, tp PT A thấy anh Nguyễn Thành Q đang đứng trước số nhà 04, đường CC, trên tay anh Q cầm một chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, màu vàng. Lúc này, A nói với I: “Ông kia cầm điện thoại, quay lại bạn”, khi nghe A nói vậy thì I quay xe mô tô lại để cướp giật chiếc điện thoại nói trên, I điều khiển xe áp sát anh Q, A ngồi sau xe mô tô dùng tay phải nhanh chóng giật chiếc điện thoại di động mà anh Q đang cầm trên tay, khi thấy A đã giật được điện thoại thì I điều khiển xe mô tô tăng ga bỏ chạy thoát. Sau đó, I chở A về nhà của A ngồi đợi, còn I cầm chiếc điện thoại di động vừa cướp giật được đến bán cho Nguyễn Thanh U với giá là 12.500.000 đồng. Khi về gặp A, I nói với A là chỉ bán chiếc điện thoại di động được số tiền 7.000.000 đồng nên chia cho A số tiền: 3.500.000 đồng và I được số tiền: 9.000.000 đồng, I và A đã tiêu xài hết.

Vì vậy, Cáo trạng số 230/CT/VKS-PT, ngày 27/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT truy tố các bị cáo Từ A và Nguyễn Hữu I về tội “Cướp giật tài sản” theo khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Từ A và Nguyễn Hữu I là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, các bị cáo nhận thức rõ hành vi cướp giật tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Các bị cáo ý thức được quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ thế nhưng, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động nặng nhọc nên các bị cáo đã có hành vi cướp giật tài sản của người khác rồi nhanh chóng tẩu thoát, bất chấp hậu quả xảy ra, các bị cáo không có nghề nghiệp, sử dụng số tiền do phạm tội mà có để tiêu xài cá nhân, các bị cáo đã phạm tội cướp giật điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max trị giá 25.360.000 đồng, hành vi của các bị cáo rất táo tợn, manh động gây nguy hiểm cho xã hội, làm mất trật tự trị an tại địa phương nên cần phải tuyên phạt các bị cáo bằng một mức án nghiêm khắc đủ để răn đe, giáo dục và tuyên truyền phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Từ A không có tiền án tiền sự, nhưng nhân thân xấu, ngày 04/01/2020 thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy tại khu phố F, phường C, thành phố PT, đến ngày 13/5/2020 bị khởi tố bị can về hành vi nói trên. Hiện đang được xử lý trong một vụ án khác.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo với hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, bị cáo trình độ học vấn thấp nhận thức có phần hạn chế nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Hữu I, không có tiền sự nhưng có tiền án: ngày 07/9/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố PT xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 110/2017/HSST. Bị cáo chấp hành xong án phạt tù vào ngày 11/6/2018, chưa thực hiện xong việc đóng án phí và bồi thường dân sự, chưa được xóa án tích.

Với tính chất mức độ phạm tội của các bị cáo, trên cơ sở cân nhắc tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo thấy rằng cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thanh U khi mua chiếc điện thoại Iphone 11 Pro Max và anh Lâm Định X nhận cất giữ tài sản này không biết đây là tài sản có nguồn gốc phạm pháp nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố PT không xử lý hình sự về hành vi chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT:

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố PT về việc áp dụng pháp luật, mức hình phạt là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Winner, gắn biển số 86C1-XXX.26; số máy: KC26E1077770; số khung: RLHKC2607GY063305. Qua xác minh xe này được cấp cho anh Phạm Văn GG (trú tại ấp HH, xã II, huyện JJ, tỉnh KK). Còn biển số xe mô tô 86C1-XXX.26 được cấp cho chiếc xe Sirius màu đỏ đen do anh Phạm Thành A (sinh năm 1981; trú tại V, phường L, thành phố PT) làm chủ, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an thành phố PT tiếp tục tạm giữ để điều tra, làm rõ và xử lý sau.

Đối với chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi số Imei: 862860045848136, được thu giữ từ Nguyễn Hữu I là vật liên quan đến việc thực hiện tội phạm nên tịch thu sung quỹ. (Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng tài sản số 41, ngày 30/11/2020, giữa Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố PT và Công an thành phố PT).

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: các bị cáo Từ A, Nguyễn Hữu I phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ: điểm d, khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: bị cáo Từ A 04 (Bốn) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 14/8/2020.

Căn cứ: điểm d, khoản 2 Điều 171, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Hữu I 04 (Bốn) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 14/8/2020.

[2] Biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi số Imei: 862860045848136. (Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng tài sản số 41, ngày 30/11/2020, giữa Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố PT và Công an thành phố PT).

[3] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Từ A, Nguyễn Hữu I mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

[4] Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (19/01/2021). Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:07/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về