TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 07/2021/HSPT NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Trong ngày 15/01/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 323/TLPT-HS ngày 04 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Đặng Ngọc H, do có kháng cáo của bị cáo Đặng Ngọc H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 166/2020/HSST ngày 28/10/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Đặng Ngọc H;tên gọi khác: Không; sinh năm 1996 tại: huyện L, tỉnh Bắc Giang; Nơi cư trú: Tổ dân phố H, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp:Không;trình độ văn hóa:12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Đặng Ngọc H1, sinh năm 1970 và bà Ngô Thị Th, sinh năm 1971;có vợ Ngô Thị Vân A, sinh năm 1996 và có 1 con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10 tháng 6 năm 2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. (có mặt) Ngoài ra trong vụ án còn có một số bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 19 giờ ngày 25/5/2020, Đặng Ngọc H đến nhà nghỉ H của anh Nguyễn Đức H2, địa chỉ số 47, ngõ 7, đường H, phường L, thành phố B thuê phòng nghỉ. Do không có tiền nên H nảy sinh ý định lừa tiền của anh H2 để trả tiền nhà nghỉ, mua thẻ game để chơi game trên mạng và chi tiêu cá nhân. Khoảng 23 giờ cùng ngày, H gọi điện cho ông Phạm Hồng T làm nghề xe ôm bảo đến nhà nghỉ H. Gọi điện xong, H xuống quầy lễ tân gặp anh H2 nói hiện không có tiền mặt, bảo anh H2 có tài khoản ngân hàng không để H chuyển khoản cho rồi anh H2 rút ra đưa tiền mặt lại cho H. Anh H2 đồng ý và cho H số tài khoản của vợ anh H2 là chị Đỗ Phương Th1 mở tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), số tài khoản: 2500205175803. H sử dụng điện thoại Iphone 6, dùng mật khẩu 290596 đăng nhập vào ứng dụng ví điện tử MOMO, tài khoản: 0983617491 mang tên DANG NGOC HUNG. Trong giao diện của ứng dụng, H vào phần “chuyển tiền”, chọn ngân hàng nhận tiền là Agribank, tài khoản nhận tiền là 2500205175803, số tiền chuyển là 500.000 đồng sau đó nhấn vào ô chữ “tiếp tục”. Trên màn hình hiện ra phần “xác nhận thanh toán” thì H dừng lại, không thao tác nữa. H đưa điện thoại cho anh H2 xem và nói đã chuyển tiền rồi. Do không hiểu rõ về hình thức chuyển khoản ngân hàng nên khi nhìn thấy màn hình điện thoại có dòng chữ “xác nhận thanh toán” thì anh H2 tin tưởng H đã chuyển tiền thành công. Anh H2 lấy điện thoại chụp lại màn hình điện thoại của H sau đó đưa trước cho H 300.000 đồng còn 200.000 đồng H bảo anh H2 giữ lại để lát nữa trả tiền taxi khi vợ H đến. Lúc này ông T đến, H đưa cho ông T 300.0000 đồng để mua thẻ game. Một lúc sau, anh H2 bảo chị Th1 kiểm tra tài khoản ngân hàng thì chị Th1 cho biết chưa nhận được 500.000 đồng. Anh H2 hỏi thì H nói đã chuyển tiền rồi, tại buổi tối nên ngân hàng chuyển chậm, anh H2 không hỏi gì nữa.
Đến khoảng 00 giờ 45 phút ngày 26/5/2020, khi chơi game hết tiền, H tiếp tục gọi điện cho ông T xe ôm đến đợi dưới cửa nhà nghỉ và điện thoại cho anh H2 nói muốn chuyển tiếp vào tài khoản ngân hàng của vợ anh H2 500.000 đồng để lấy tiền mặt, anh H2 đồng ý. H sử dụng điện thoại iphone 6 vào ứng dụng SmartBanking của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), đăng nhập vào tài khoản: 0947635586, số tài khoản nguồn (tài khoản ngân hàng BIDV) là 43110000714612 của H, nhập mật khẩu Hunganhs2*. Tại giao diện chính của ứng dụng, H vào phần “chuyển tiền” chọn ngân hàng nhận tiền là Agribank, điền số tài khoản nhận tiền là 2500205175803 của chị Th1, nhập số tiền 50.000 đồng rồi ấn vào chữ “tiếp tục”, nhập mã OTP gửi về máy. Do tài khoản ngân hàng BIDV của H lúc này không có tiền nên giao dịch không hoàn thành. Lúc này tại phần điền “thông tin tài khoản”, “nhập số tiền” có thể chỉnh sửa được và H đã chỉnh số tiền thành 500.000 đồng và không thao tác thêm nữa. H đã đưa cho anh H2 xem giao diện của ứng dụng trên màn hình điện thoại, anh H2 nghĩ H đã chuyển tiền rồi nên lấy máy điện thoại chụp lại màn hình giao dịch trên điện thoại của H. Lúc này ông T đến, H bảo anh H2 mở cửa nhà nghỉ để đưa tiền cho xe ôm. Anh H2 đưa cho ông T 400.000 đồng qua cửa sổ, còn 100.000 đồng H đề nghị thanh toán vào tiền nhà nghỉ. Sau đó, H quay về phòng đợi ông T xe ôm mua thẻ game gửi cho và tiếp tục chơi game hết số tiền đó.
Đến khoảng 06 giờ ngày 26/5/2020, H điện thoại nói với anh H2 đã chuyển vào tài khoản ngân hàng của chị Th1 600.000 đồng, lát nữa có taxi H gọi đến thì đưa cho taxi hộ H. Lúc này H sử dụng điện thoại đăng nhập vào ứng dụng Viettel Pay, tài khoản 0983617491, mật khẩu 290596. Tại giao diện của ứng dụng, H vào mục “chuyển tiền đến số tài khoản”, chọn ngân hàng nhận tiền Agribank, tài khoản nhận tiền là 2500205175803 của chị Th1, nhập số tiền 600.000 đồng rồi ấn “tiếp tục”. Sau đó khi H nhập mã OTP theo yêu cầu của ứng dụng thì hiện ra nội dung chuyển tiền thất bại do số dư của H không đủ để thực hiện giao dịch. H vào mục “lịch sử giao dịch”, chọn phần giao dịch thất bại rồi chụp lại màn hình. Sau đó H dùng ứng dụng chỉnh sửa ảnh có trong điện thoại xóa chữ “Thất bại” thay bằng chữ “Thành công” rồi đưa cho anh H2 xem. Anh H2 không nghi ngờ gì và khi taxi đến thì anh H2 đưa cho lái xe là anh Ngô Phương N số tiền 600.000 đồng, anh H2 cũng chụp lại màn hình điện thoại có ảnh giao dịch. Cùng với thủ đoạn tương tự, trong ngày 26/5/2020, H còn chiếm đoạt thêm của anh H2 500.000 đồng nữa. Đến khoảng hơn 13 giờ ngày 26/5/2020, H xuống quầy lễ tân lấy lại từ anh H2 số tiền 100.000 đồng để đi mua đồ ăn. Khi đi mua đồ ăn về, H hỏi vay anh H2 300.000 đồng để tiếp tục đưa cho anh N taxi đi mua thẻ game hộ. Lúc này anh H2 không còn tiền mặt nên đã bảo anh N cứ ứng tiền mua thẻ game cho H, anh H2 sẽ trả tiền cho anh N sau. Anh N cầm tiền và đi mua thẻ cho H. Sau đó anh H2 đã trả 300.000 đồng cho anh N. Tổng số tiền H chiếm đoạt của anh H2 là 2.200.000 đồng.
Đến khoảng 17 giờ ngày 26/5/2020, anh H2 gặp H và nói vẫn chưa thấy tiền chuyển đến tài khoản ngân hàng, sợ vợ đi về sẽ trách nên yêu cầu H cầm cố máy điện thoại Iphone 6 lại để làm tin. H đồng ý và bảo anh H2 cho mượn lại một chiếc điện thoại khác để nhắn tin Zalo và Messenger. Anh H2 đã cho H mượn chiếc điện thoại màn hình cảm ứng, nhãn hiệu Itel. Khi đó, H thoát tài khoản ICloud trên chiếc điện thoại Iphone 6 đưa cho anh H2 rồi cầm điện thoại Itel lên phòng 301. Tại đây, H vào ứng dụng Zalo thì thấy tài khoản zalo của anh H2 vẫn chưa đăng xuất, mục tin nhắn có nội dung anh H2 nhắn tin với ông Đỗ Văn T2, sinh năm 1974, trú tại Thôn H, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Thấy vậy, H đã giả danh anh H2 nhắn tin Zalo cho ông T2 với nội dung: “Vâng”, “Anh chuyển cho em 6.500.000 đồng vào tài khoản này”. Ông T2 đã điện thoại Zalo đến nH H không bắt máy. Ông T2 tiếp tục nhắn tin: “Anh không hiểu” thì H nhắn tin nói dối là “Em đang làm việc với Công an” để không bị gọi lại để kiểm tra. Ông T2 nhắn tin lại “Thế chuyển vào đâu” thì H nhắn tin trả lời: “Bidv, STK:
12610001117918. Chủ tài khoản nguyen manh hung”, ông T2 nhắn lại: “OK”. Trước đó H đã vào Facebook lấy được số tài khoản ngân hàng BIDV:
12610001117918. Chủ tài khoản Nguyen Manh Hung, là đại lý chuyên bán thẻ game để gửi cho ông T2. Sau đó H liên lạc với người bán thẻ game qua Messenger nếu thấy 6.500.000 đồng thì nạp thẻ vào tài khoản game GamVip cho H. Đúng lúc này thì anh H2 lên phòng H đòi điện thoại. H đã xóa ứng dụng zalo, facebook, messenger và trả lại điện thoại cho anh H2.
Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, H mượn anh H2 chiếc điện thoại Nokia 1280 màu xanh da trời nói dối là đi mua đồ ăn và đi lấy tiền nH sau đó H bỏ trốn không quay lại nhà nghỉ của anh H2. Khoảng 22 giờ ngày 26/5/2020, H đi xe taxi lên thị trấn V, huyện L. Trên đường đi H mượn điện thoại của người lái taxi để vào game GamVip chơi thì thấy tài khoản game của mình có 6.400.000 đồng thì biết là ông T2 đã chuyển tiền (ông T2 chỉ chuyển số tiền 6.400.000 đồng). H bán lại tiền game cho đại lý game trên mạng được 5.600.000 đồng chuyển vào tài khoản ViettelPay của H. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 26/5/2020, H đến cửa hàng điện thoại T của chị Đào Thị Ng mua 01 chiếc điện thoại Iphone 6S Plus 16G màu Gold với giá 4.000.000 đồng, thanh toán bằng hình thức chuyển khoản từ tài khoản Viettelpay của H sang tài khoản ngân hàng của chị Ng.
Ngày 27/5/2020, anh Nguyễn Đức H2 có đơn trình báo Công an thành phố Bắc Giang, giao nộp đồ vật tài liệu gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 mầu trắng, loại dung lượng 16 Gb, số imei 359258060398253; 06 tờ giấy A4 in hình ảnh anh H2 chụp các giao dịch chuyển tiền; 01 bản phô tô chứng minh thư nhân dân của Đặng Ngọc H; 01 bản phô tô giấy biên nhận tiền; 04 bức ảnh nam thanh niên trích xuất từ camera giám sát an ninh tại nhà nghỉ.
Ngày 05/6/2020, ông Đỗ Văn T2 có đơn trình báo Công an thành phố Bắc Giang, giao nộp đồ vật tài liệu gồm: 01 bản sao kê tài khoản số 203583650 của ông T2; 04 bản phô tô ảnh chụp tin nhắn zalo.
Ngày 10/6/2020, Cơ quan điều tra đã cho anh H2 nhận dạng. Kết quả, anh H2 nhận dạng đúng Đặng Ngọc H là người đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh ngày 25/5/2020 và 26/5/2020.
Cùng ngày 10/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Giang đã giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Đặng Ngọc H. Cơ quan điều tra tạm giữ của Đặng Ngọc H 01 chiếc điện thoại di động nhãn Nokia vỏ mầu xanh, màn hình hỏng, bàn phím đã mất, mặt sau máy đã bị bung (do quá trình H sử dụng thì chiếc điện thoại trên bị hư hỏng); 01 chiếc quần bò mầu xám, cạp quần có mác nhãn hiệu ORIGINAL, đã qua sử dụng.
Ngày 24/6/2020, Cơ quan điều tra đã thực nghiệm điều tra vụ án. Kết quả, Đặng Ngọc H đã thực hiện thuần thục các thao tác trên điện thoại hành vi dùng các ứng dụng Internet Banking của ngân hàng BIDV, ví điện tử MOMO, ví điện tử Viettel Pay để lừa đảo, chiếm đoạt tiền của anh H2 ngày 25/5/2020 và ngày 26/5/2020.
Ngày 26/6/2020, Cơ quan điều tra đã yêu cầu ngân hàng BIDV cung cấp hồ sơ lập tài khoản và sao kê tài khoản ngân hàng của Đặng Ngọc H, kết quả H không thực hiện giao dịch chuyển tiền nào từ ngày 24/5/2020 đến ngày 27/5/2020. Ngày 04/9/2020, chị Đỗ Phương Th1 đã giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 bản sao kê tài khoản ngân hàng của chị Đỗ Phương Th1 từ ngày 20/5/2020 đến ngày 31/5/2020. Kết quả không có giao dịch chuyển tiền nào từ các tài khoản ngân hàng và ví điện tử của H đến tài khoản ngân hàng của chị Th1. Đối với chủ tài khoản 12610001117918 mang tên Nguyen Manh Hung tại Ngân hàng BIDV, Cơ quan điều tra đã xác minh, kết quả xác định thông tin chứng minh nhân dân dùng để đăng ký tài khoản ngân hàng BIDV mang tên Nguyen Manh Hung là giả nên không xác minh làm rõ được người đăng ký số tài khoản trên.
Tại kết luận định giá tài sản số 345/KL- HĐĐG ngày 04/9/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Bắc Giang kết luận: 01 chiếc điện thoại di động Nokia 1280, vỏ màu xanh, máy đã qua sử dụng, có trị giá 200.000 đồng.
Ngày 04/9/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại anh H2 chiếc điện thoại nêu trên. Anh H2 yêu cầu H hoàn trả số tiền 2.200.000 đồng và 200.000 đồng giá trị chiếc điện thoại Nokia 1280 H chiếm đoạt và làm hỏng. Ông Đỗ Văn T2 yêu cầu Đặng Ngọc H hoàn trả số tiền 6.400.000 đồng.
Quá trình điều tra, ngoài các hành vi chiếm đoạt tài sản nêu trên, Đặng Ngọc H còn khai thực hiện các hành vi chiếm đoạt tài sản khác như sau:
- Ngày 03/6/2020 tại ngõ 28 đường N, tổ dân phố H, phường T, thành phố B, Đặng Ngọc H đã dùng thủ đoạn gian dối lừa đảo chiếm đoạt của ông Cao Đức H4 01 chiếc điện thoại di động OPPO F1S đã qua sử dụng, có trị giá 1.100.000 đồng sau đó đem cầm cố cho anh Trần Văn S được 800.000đồng, sau khi chuộc của anh S lại đem bán cho chị Chu Thị Minh P được 1000.000đồng. Ông H4 đã nhận lại điện thoại. Chị P yêu cầu bị cáo hoàn trả 1000.000đồng.
- Ngày 28/5/2020, tại khu vực cổng Bệnh viện đa khoa huyện Lạng Giang, Đặng Ngọc H dùng thủ đoạn gian dối lừa đảo chiếm đoạt 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung J6+ trị giá 1.500.000 đồng và số tiền 300.000 đồng của anh Ngô Sách L sau đó bị cáo đã trao đổi lấy 01 điện thoại Iphone6 và 1.100.000đồng của anh Hà Hùng C. Ông L đã được nhận lại điện thoại. Anh C yêu cầu bị cáo hoàn trả 1.100.000đồng và 900.000đồngtrị giá chiếc điện thoại Iphone6.
- Ngày 29/5/2020, tại khu vực cổng UBND huyện Lạng Giang, Đặng Ngọc H dùng thủ đoạn gian dối lừa đảo chiếm đoạt số tiền 500.000 đồng của anh Nguyễn Văn L1. Anh L1 yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 500.000đồng.
Đối với các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nêu trên của Đặng Ngọc H không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Trưởng Công an thành phố Bắc Giang và Trưởng Công an huyện Lạng Giang đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
Vật chứng của vụ án gồm: 01 chiếc điện thoại Iphone 6 dung lượng 16G, màu bạc, IMEI: 359258060398253 đã qua sử dụng của H; 01 chiếc quần bò cộc màu xám H mặc ngày 26/5/2020 lúc ở tại nhà nghỉ H, đã nhập kho vật chứng để xử lý.
Bản án hình sự sơ thẩm số 166/2020/HSST ngày 28/10/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
1. Tuyên bố bị cáo Đặng Ngọc H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” .
2. Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Đặng Ngọc H 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 10/6/2020.
Ngoài ra bản án còn tuyên phần xử lý vật chứng, phần án phí, quyền kháng cáo, quyền thi hành án theo quy định.
Ngày 03/11/2020 bị cáo Đặng Ngọc H kháng cáo bản án sơ thẩm với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Đặng Ngọc H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo của mình và trình bày: Bán án sơ thẩm xét xử bị cáo như vậy là nặng. Bị cáo còn ít tuổi không am hiểu pháp luật nên đã vi phạm pháp luật. Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới là đã tác động gia đình khắc phục một phần thiệt hại do bị cáo gây ra. Cụ thể là gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh Nguyễn Đức H2 và anh Đỗ Văn T2 số tiền 8.950.000 đồng và nộp vào Chi cục thi hành án số tiền 2.000.000 đồng. Vì vậy mong hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về hòa nhập cộng đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Án sơ thẩm xử bị cáo là đúng người đúng tội và không oan. Tại cấp phúc thẩm bị cáo xuất trình biên lai tiền nộp số tiền 2.000.000 đồng khắc phục hậu quả và biên bản giao nhận tiền với bị hại Hồng, Tiến và được bị hại Hồng có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Qua đó thể hiện bị cáo đã chấp hành nghiêm bản án đã xử và sự ăn năn hối cải của mình về hành vi phạm tội. Bị cáo còn trẻ, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 chấp nhận kháng cáo của bị cáo và sửa bản án sơ thẩm, phạt bị cáo 07 tháng 05 ngày tù.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị cáo được làm trong thời hạn kháng cáo theo đúng quy định tại Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên xác định là đơn kháng cáo hợp pháp, được chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo thấy:
+ Về tội danh: Trong khoảng thời gian từ ngày 25/5/2020 đến ngày 26/5/2020, trên địa bàn thành phố Bắc Giang, bị cáo Đặng Ngọc H đã dùng thủ đoạn gian dối sử dụng các ứng dụng Internet Banking của ngân hàng BIDV, ví điện tử MOMO, ví điện tử Viettel Pay; giả danh sử dụng zalo, tin nhắn để chiếm đoạt của anh Nguyễn Đức H2 số tiền 2.200.000 đồng và 01 chiếc điện thoại Nokia 1280 trị giá 200.000 đồng; chiếm đoạt của anh Đỗ Văn T2 số tiền 6.400.000 đồng.Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 8.800.000 đồng.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Các lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với thời gian, địa điểm và vật chứng đã được thu giữ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Do đó Bản án hình sự sơ thẩm số 166/2020/HSST ngày 28/10/2020 xét xử đối với bị cáo Đặng Ngọc H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
+ Về hình phạt: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình để xử phạt bị cáo 09 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, tại cấp phúc thẩm bị cáo có tình tiết giảm nhẹ mới là đã tác động gia đình bồi thường khắc phục hậu quả do bị cáo gây ra, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, nộp án phí hình sự sơ thẩm. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử thấy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu áp phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
[1]. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Ngọc H, sửa bản án sơ thẩm:
- Tuyên bố bị cáo Đặng Ngọc H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” .
- Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Đặng Ngọc H 07 tháng 05 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 10/6/2020.
[2]. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Đặng Ngọc H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[3]. Xác nhận bị cáo Đặng Ngọc H đã nộp 2.000.000 đồng theo biên lai số AA/2012/00885 ngày 12 tháng 01 năm 2021.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 07/2021/HSPT ngày 15/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 07/2021/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về