Bản án 07/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 07/2021/HS-PT NGÀY 15/01/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 120/2020/TLPT-HS ngày 06 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo Trần Văn H do có kháng cáo của bị cáo Trần Văn H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2020/HS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Văn H, sinh ngày 06/10/1997, tại tỉnh Tiền Giang.

Nơi cư trú: ấp L, xã B, huyện T, tỉnh Tiền Giang;

Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá (học vấn): 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Trần Văn T1, sinh năm 1974 và bà Lê Thị T2, sinh năm 1973; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền sự: Không. Tiền án: 02.

1. Ngày 05/11/2015, Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án ngày 23/12/2016.

2. Ngày 31/8/2017, Toà án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án ngày 10/5/2018.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 24/01/2020, tạm giam ngày 27/01/2020 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn có bị hại Nguyễn Hữu C1, Nguyễn Thị H1, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Văn T4 không có kháng cáo. Bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ, ngày 24/01/2020, Phan Minh S, sinh năm 1996, thường trú tại ấp Tân Hiệp, xã Tân Phú, thị xã C, tỉnh Tiền Giang điều khiển xe mô tô có gắn biển số 54Z8-3048 chở Trần Văn H đi chơi tại thị xã C. Trước khi đi, bị cáo H có đem theo 01 bình xịt hơi cay do S cho mượn. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, S chở H lưu thông trên Quốc lộ 1A, hướng Mỹ Thuận – Trung Lương, vừa qua ngã 3 tuyến tránh thị xã C khi đến đoạn đường thuộc ấp Q, xã N, thị xã C, tỉnh Tiền Giang, bị cáo H nhìn thấy phía trước cùng chiều có xe mô tô biển số 68P1-631.54 do anh Nguyễn Hữu C1 điều khiển chở vợ là chị Nguyễn Thị H1, chị H1 có đeo 01 túi xách màu xám bên hông phải nên bị cáo H nảy sinh ý định giật túi xách. H nói với S giật túi xách chị H1, S im lặng nhưng điều khiển xe vượt lên, áp sát bên phải anh C1, bị cáo H liền dùng tay giật mạnh túi xách của chị H1, lúc này S điều khiển xe bỏ chạy thì va chạm với xe mô tô phía trước cùng chiều (không xác định được biển kiểm soát và người điều khiển) dẫn đến cả hai té ngã và rơi túi xách. Bị cáo H liền đứng dậy chạy lại nhặt túi xách cầm trên tay, ngay lúc này anh C1 cùng chị H1 đuổi đến giật lại túi xách từ tay H thì bị H dùng bình xịt hơi cay xịt vào mặt để tẩu thoát. S và H bỏ lại mô tô có gắn biển số 54Z8-3048 tại hiện trường. Trên đường chạy bộ tẩu thoát, H lấy trong túi xách số tiền 10.950.000 đồng bỏ vào túi quần, lấy 01 điện thoại di động hiệu OPPO Reno 2F đưa cho S cất và ném bỏ túi xách ven đường rồi tiếp tục chạy một đoạn khoảng 80m thì bị quần chúng nhân dân truy đuổi bắt giữ H giao cho công an giải quyết, còn S chạy thoát.

Bản kết luận định giá số 644 ngày 06/02/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thị xã C kết luận: Tổng tài sản Trần Văn H đã chiếm đoạt có giá trị là 19.950.500 đồng.

Bản kết luận giám định số 1884/C09B ngày 31/3/2020 của Phân viện Khoa học hình sự (Bộ Công an) tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Mẫu vật gửi giám định là bình xịt hơi cay nằm trong danh mục công cụ hỗ trợ.

Bản kết luận giám định số 266/KTHS (Đ2) ngày 21/4/2020 của Phòng kỹ thuận hình sự - Công an tỉnh Tiền Giang kết luận: Số khung, số máy của xe mô tô trước và sau khi giám định đã bị mày mòn. Đối với biển kiểm soát 54Z8-3048 không giám định được do không thu được mẫu vật tương tự để so sánh.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 62/2020/HS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Áp dụng điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015.

Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn H 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 24/01/2020.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 29/9/2020, bị cáo Trần Văn H có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Trần Văn H vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như nội dung bản án sơ thẩm nêu, bị cáo rất ăn năn hối hận với tội lỗi của mình xin Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang trong phần tranh luận phát biểu quan điểm giải quyết vụ án đã phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân cùng các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn H giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa Phúc thẩm, bị cáo Trần Văn Hđã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã nêu, lời nhận tội của bị cáo đã cơ bản phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng và các lời khai trước đây của bị cáo tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đầy đủ cơ sở xác định: Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 24/01/2020, Phan Minh S điều khiển xe mô tô có gắn biển số 54Z8-3048 chở Trần Văn H lưu thông trên Quốc lộ 1A, hướng Mỹ Thuận – Trung Lương thì phát hiện anh C1 điều khiển xe mô tô chở chị H1 có đeo 01 túi xách màu xám bên hông phải nên bị cáo H nảy sinh ý định giật túi xách. Bị cáo H đã có hành vi dùng tay giật mạnh túi xách của chị H1, sau đó tiếp tục dùng bình xịt hơi cay là công cụ hỗ trợ liên tiếp xịt vào mặt anh C1 và chị H1 để hành hung nhằm tẩu thoát. Bị cáo H có tiền án chưa được xoá án tích. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo H tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[2] Bị cáo H là người đã thành niên, có đầy đủ sức khoẻ và khả năng nhận thức về hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được rằng quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân luôn được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tài sản của người khác sẽ bị xử lý nghiêm khắc, thế nhưng với động cơ tham lam tư lợi, lười biếng lao động, khi không có tiền để tiêu xài, bị cáo đã bất chấp pháp luật, liều lĩnh dùng phương tiện nguy hiểm là xe mô tô để thực hiện hành vi cướp giật túi xách của chị H1 giữa ban ngày. Bị cáo tiếp tục sử dụng công cụ hỗ trợ là bình xịt hơi cay xịt vào mặt bị hại để hành hung nhằm tẩu thoát.

[ 3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn H xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, nó không những xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp, tính mạng, sức khỏe của công dân, cụ thể trong vụ án này tài sản, sức khỏe của anh C1 và chị H1 bị xâm phạm, mà nó còn gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương, gây tâm lý hoang mang lo sợ cho quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo đã nhiều lần vi phạm pháp luật những vẫn chưa biết ăn năn, hối hận mà vẫn tiếp tục phạm tội. Bị cáo có tiền án chưa được xoá án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Điều này đã thể hiện bị cáo xem thường pháp luật, không tích cực sửa chữa lỗi lầm, ăn năn hối cải. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo. Trong lần phạm tội này, bị cáo phạm tội có 03 tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn H 08 năm tù là thỏa đáng, mức án trên đã tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo cũng như để giáo dục, răn đe và phòng chống tội phạm. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay bị cáo không bổ sung được tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào khác. Nên không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn H, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

[4] Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử, nghĩ nên chấp nhận.

Các phần khác của quyết định án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

1/ Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Trần Văn H.

- Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 62/2020/HS-ST ngày 24 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

Áp dụng điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015.

Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn H 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 24/01/2020.

2/ Về án phí: Bị cáo Trần Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3/ Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HS-PT ngày 15/01/2021 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:07/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về