TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠNG GIANG, TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 29/01/2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2021 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2021/QĐXXST-DS ngày 13/01/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Đặng Thị L, sinh năm 1973 (Vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).
Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
Hiện cư trú: Số nhà C5-6 tổ 7, khu phố 6, phường L, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Nguyễn Văn T, sinh năm 1964 (Vắng mặt, có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt).
Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Đặng Thị L trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Văn T ngày 04/10/2008, trước khi cưới có được tìm hiểu, tự nguyện thỏa thuận đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống và trong công việc làm ăn hàng ngày vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến đánh cãi nhau, không bảo được nhau để cùng làm ăn phát triển kinh tế, xây dựng hạnh phúc gia đình. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ vợ chồng từ ngày 20/02/2020 âm lịch. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.
Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Tiến N, sinh ngày 03/02/2011, hiện con đang ở cùng chị, cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay ly hôn chị xin được nuôi con, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản: Vợ chồng xin tự thỏa thuận, nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.
* Bị đơn anh Nguyễn Văn T trình bày: Chị L trình bày về thời gian kết hôn và quá trình mâu thuẫn là đúng, nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn anh đồng ý ly hôn chị L. Về con chung: Như chị L trình bày là đúng, nay ly hôn anh và chị L thỏa thuận để chị L nuôi con, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản.
Tại phiên toà hôm nay chị L, anh T đều vắng mặt và có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt.
Phát biểu của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng của thẩm phán, thư ký, hội thẩm nhân dân, các đương sự trong suốt quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay chị L, anh T đều vắng mặt và có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt. Do vậy đề nghị HĐXX tiếp tục xét xử vụ án theo quy định của pháp luật. Đề nghị xét xử cho chị L được ly hôn anh T; Về con chung: Giao chị L nuôi con; Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản: Cả chị L, anh T đều không đề nghị Tòa án giải quyết, nên đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết; chị L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm. Ngoài ra còn đề nghị tuyên quyền kháng cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu đầy đủ, toàn diện các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, phạm vi khởi kiện, thẩm quyền giải quyết và thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Đặng Thị L, sinh năm 1973; Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang; Hiện cư trú: Số nhà C5-6 tổ 7, khu phố 6, phường L, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh, khởi kiện xin ly hôn với Nguyễn Văn T, sinh năm 1964; Nơi cư trú: Thôn T, xã T, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Nội dung: Chị L xin được ly hôn anh T, đề nghị Tòa án giải quyết về con chung, không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản. Như vậy đây là quan hệ pháp luật tranh chấp hôn nhân và gia đình, đề nghị xin được ly hôn, đề nghị giải quyết về con chung, không đề nghị giải quyết về cấp dưỡng nuôi con và tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang.
Thủ tục tố tụng: Tòa án đã tiến hành đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay chị L, anh T đều vắng mặt và có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt. Nên HĐXX áp dụng Điều 228; 238 Bộ luật Tố tụng dân sự tiếp tục xét xử vụ án theo pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đặng Thị L kết hôn với anh Nguyễn Văn T ngày 04/10/2008, trên cơ sở tự nguyện hợp pháp, đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, nên trong cuộc sống vợ chồng thường bất đồng quan điểm dẫn đến cãi nhau, không bảo ban được nhau để cùng làm ăn phát triển kinh tế, xây dựng hạnh phúc gia đình. Vợ chồng sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ với nhau từ đầu năm 2020. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cả chị L và anh T đều xin được ly hôn. HĐXX xét thấy việc thỏa thuận xin được thuận tình ly hôn của chị L và anh T là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nhưng tại phiên tòa hôm nay chị L, anh T đều vắng mặt và có văn bản đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt. Do vậy cần xử cho chị L được ly hôn anh T, xét phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2.2] Về nuôi con chung: Quá trình chung sống chị L và anh T sinh được 01 con chung là Nguyễn Tiến N, sinh ngày 03/02/2011. Hiện cháu đang ở cùng chị L, cháu khỏe mạnh và phát triển bình thường. Nay ly hôn cả chị L và anh T đều thỏa thuận để chị L nuôi con; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con. HĐXX xét thấy thỏa thuận nuôi con chung của chị L và anh T là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với nguyện vọng của con cần chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L, anh T đều không đề nghị Tòa án giải quyết, nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết; anh T được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn. Xét là phù hợp điều 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình.
[2.3] Về chia tài sản: Quá trình giải quyết vụ án, cả chị L và anh T đều không đề nghị Tòa án giải quyết. Nên HĐXX không đặt ra xem xét giải quyết. Nếu sau này có sảy ra tranh chấp về tài sản, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
[2.4] Về án phí: Chị L phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật; được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp.
Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
* Áp dụng Điều 28; 35; 147; 228; 238 235; 264; 271; 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Điều 56; 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điều 26; 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Đặng Thị L được ly hôn anh Nguyễn Văn T.
2/ Về con chung: Chấp nhận thỏa thuận, giao chị Đặng Thị L nuôi con chung là Nguyễn Tiến N, sinh ngày 03/02/2011; không đề nghị Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con; anh T được quyền thăm nom con sau khi đã ly hôn, không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.
3/ Về án phí: Chị Đặng Thị L phải chịu 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002788. ngày 05/01/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.
Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt án vắng mặt.
Án xử sơ thẩm công khai.
Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 07/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về