Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 19/02/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/02/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 165/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020; về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2021/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 02 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đào Thị G, sinh năm 1985; địa chỉ: Khối 16, Thị trấn Phù Y, huyện Phù Y, tỉnh S La (có mặt tại phiên tòa).

2. Bị đơn: Anh Hà Thanh S, sinh năm 1985; địa chỉ: Thôn Bắc L, xã Nguyên X, huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình (vắng mặt tại phiên tòa không có lý do) 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Xuân T, sinh năm 1985; địa chỉ: Đồn Biên phòng chiềng Kh, xã Chiềng Kh, huyện Sông M, tỉnh S La (có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án; nguyên đơn, chị Đào Thị G trình bày:

Chị và anh Hà Thanh S tìm hiểu tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Phù Y, huyện Phù Y, tỉnh S L vào ngày 07 tháng 3 năm 2013 và đã được Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình giải quyết công nhân cho thuận tình ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 43/2016/QĐST-HNGĐ ngày 05/05/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng. Theo Quyết định này về phần con chung, chị và anh S thỏa thuận: Chị trực tiếp nuôi dưỡng con chung Hà Lệ Q, sinh ngày 11/5/2013 và chị không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị.

Sau khi Quyết định trên được ban hành có hiệu lực pháp luật, ngày 26/9/2019 chị đã kết hôn cùng anh Vũ Xuân T, sinh ngày 26/9/1985; địa chỉ: Xã Chiềng Kh, huyện Sông M, tỉnh S La. Do trước thời kỳ hôn nhân với anh S, chị và anh T đã có tình cảm với nhau và có quan hệ sinh lý nên bản thân chị và anh T cũng có hoài nghi về việc có thể con Hà Lệ Q là con chung của chị với anh T chứ không phải con chung của chị với anh S. Do đó ngày 02/07/2019 anh Vũ Xuân T đã thực hiện việc giám định ADN để xác định cha con giữa anh T và con Hà Lệ Q. Tại Kết quả xét nghiệm ADN ngày 02/7/2019 của Công ty TNHH di truyền số iADN đã kết luận anh T có quan hệ huyết thống cha - con với con Hà Lệ Q. Vì vậy chị G đã làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xem xét theo trình tự Tái thẩm, đề nghị hủy phần con chung trong Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 43/2016/QĐST-HNGĐ ngày 05/05/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình để giải quyết lại cho đúng với thực tế khách quan và để chị có cơ sở làm lại thủ tục giấy tờ liên quan đến lý lịch nhân thân cho con Hà Lệ Q. Quyết định tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã chấp nhận yêu cầu của chị G, hủy phần con chung, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xét xử sơ thẩm lại. Đến nay Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng thụ lý giải quyết lại về phần con chung, quan điểm của chị G như sau:

+ Con Hà Lệ Q, sinh ngày 11/5/2013 không phải là con chung của chị với anh Hà Thanh S nên anh S không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng hay thăm nom đối với con Hà Lệ Q. Đề nghị Tòa án xác định con Hà Lệ Q là con riêng của chị.

+ Các nội dung khác của Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 43/2016/QĐST-HNGĐ ngày 05/05/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình (phần không bị hủy) chị G nhất trí và không có yêu cầu đề nghị gì.

* Bị đơn, anh Hà Thanh S có nơi trú tại thôn Bắc L, xã Nguyên X, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Mọi văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như Thông báo thụ lý vụ án; Giấy triệu tập anh S lên Tòa án để nộp văn bản ghi ý kiến của anh đối với yêu cầu khởi kiện của chị G; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải lần 1 và lần 2; Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa đều được Tòa án tống đạt hợp lệ cho anh S theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh S không đến Tòa án để làm việc, không xuất trình tài liệu chứng cứ cho Tòa án và vắng mặt tại phiên tòa.

* Các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Vũ Xuân T trình bày:

Anh và chị Đào Thị G quen biết và có quan hệ sinh lý với nhau từ đầu năm 2012. Do điều kiện công tác nên anh và chị G không đến được với nhau, đến ngày 07/3/2013 chị G kết hôn với anh Hà Thanh S sau đó chị G và anh S thuận tình ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, chị G và anh S thỏa thuận giao con chung là Hà Lệ Q, sinh ngày 11/5/2013 cho chị G là người trực tiếp nuôi dưỡng. Sau khi Quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật anh thấy cháu Quyên có nhiều điểm giống anh nên ngày 02/7/2019 anh đã thực hiện việc giám định ADN để xác định cha con giữa anh và cháu Hà Lệ Q. Tại Kết quả xét nghiệm ADN ngày 02/7/2019 của Công ty TNHH di truyền số iDNA đã kết luận anh có quan hệ huyết thống cha - con với con Hà Lệ Q. Ngày 26/9/2019 anh đã đăng ký kết hôn với chị Đào Thị G.

Để có căn cứ sau này làm lại giấy khai sinh cho cháu Hà Lệ Q sang họ của anh, chị Đào Thị G đã làm đơn đề nghị Tái thẩm và Tòa án cấp cao tại Hà Nội đã hủy phần con chung trong Quyết định công nhận thuận tình ly hôn của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng. Anh xác định kết quả giám định ADN mà chị G cung cấp cho Tòa án là đúng sự thật. Anh đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Qua xác minh với bà Nguyễn Thị H (là mẹ đẻ của anh Hà Thanh S), có nội dung:

Anh S hiện làm ăn tự do ở tỉnh Hải Dương bà không nắm rõ địa chỉ cụ thể của anh S, thỉnh thoảng anh S mới về nhà. Tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng trong vụ án mà Tòa án giải quyết sơ thẩm lại về phần con chung giữa chị Đào Thị G và anh Hà Thanh S mà Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng gửi qua đường Bưu chính cho anh S bà đều nhận thay anh S và đều thông báo cho anh S qua điện thoại cũng như giao lại cho anh khi anh S về nhà. Anh S rất bực tức vì anh S là người vất vả với chị G và cháu Hà Lệ Q nên anh S không lên Tòa án để làm việc và anh S nói với bà “mặc xác chị G muốn làm gì thì làm, anh S không quan tâm”.

* Tại Công văn số 0125/2020/iDNA ngày 25/01/2020 của Công ty TNHH Di truyền số iDNA về việc xác nhận thông tin giám định ADN đã xác nhận: Bảng kết quả xét nghiệm huyết thống ngày 02/7/2019 giữa hai người (cha giả định: Vũ Xuân T, sinh ngày 26/9/1985 và con: Hà Lệ Q, sinh ngày 11/5/2013, giấy khai sinh số 62 cấp ngày 05/6/2013 tại UBND thị trấn Phù Y, huyện Phù Y, tỉnh Sơn La) đúng là do Công ty phát hành ra. Kết quả giám định gen đảm bảo đúng trình tự, thủ tục pháp lý.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì.

Nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung:

- Đề nghị Tòa án xác định cháu Hà Lệ Q, sinh ngày 11/5/2013 là con riêng của chị Đào Thị G, không phải là con chung của chị Đào Thị G và anh Hà Thanh S.

- Các đương sự không phải nộp án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 43/2016/QĐST-HNGĐ ngày 05/05/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội hủy phần con chung và giao cho Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xét xử sơ thẩm lại nên Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng thụ lý giải quyết lại phần con chung giữa chị Đào Thị G và anh Hà Thanh S là đúng thẩm quyền quy định tại Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Anh Hà Thanh S đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh S.

[2] Về quan hệ con chung:

Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 43/2016/QĐST-HNGĐ ngày 05/05/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xác định chị Đào Thị G và anh Hà Thanh S có 01 con chung và công nhận sự thỏa thuận của chị G, anh S về việc: chị G trực tiếp nuôi dưỡng con chung Hà Lệ Q, sinh ngày 11/5/2013; chị G không yêu cầu anh S không phải cấp dưỡng cho con chung.

Ngày 02/7/2019 anh Vũ Xuân T, sinh ngày 26/9/1985, địa chỉ: Đồn Biên phòng Chiềng Kh, xã Chường Kh, huyện Sông M, tỉnh S La (là chồng hiện tại của chị G) đã thực hiện việc giám định ADN để xác định cha con giữa anh T và cháu Hà Lệ Q. Kết quả xét nghiệm ADN ngày 02/7/2019 của Công ty TNHH di truyền số iDNA đã kết luận anh T có quan hệ huyết thống cha - con với cháu Hà Lệ Q. Do đó chị Đào Thị G đã làm đơn đề nghị xem xét lại phần con chung theo thủ tục tái thẩm. Tại Quyết định tái thẩm số 16/2020/HNGĐ-TT ngày 27/6/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã chấp nhận yêu cầu của chị G, hủy phần con chung, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng xét xử sơ thẩm lại.

Quá trình thụ lý, giải quyết lại vụ án về phần con chung, anh S không đến Tòa án để làm việc và không cung cấp tài liệu chứng cứ cho Tòa án; vì vậy Tòa án căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do chị G cung cấp và các tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập để giải quyết vụ án.

Đối với cháu Hà Lệ Q, xét thấy: Kết quả xét nghiệm ADN ngày 02/7/2019 của Công ty TNHH di truyền số iDNA đã kết luận anh T có quan hệ huyết thống cha - con với cháu Hà Lệ Q, Công ty TNHH di truyền số IDNA cũng có công văn số 125/2020/CV-IDNA ngày 25/01/2021 gửi Tòa án xác nhận bản Kết quả xét nghiệm ADN trên đúng là của Công ty phát hành ra. Mặt khác nguyên đơn – chị G đề nghị Tòa án xác định cháu Hà Lệ Q là con riêng của chị. Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định cháu Hà Lệ Q không phải là con chung của chị Đào Thị G và anh Hà Thanh S mà là con riêng của chị Đào Thị G. Vì vậy nghĩa vụ nuôi dưỡng, thăm nom đối với cháu Hà Lệ Q không đặt ra đối với anh Hà Thanh S.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo: Do vụ án được giải quyết lại về phần con chung nên chị Đào Thị G và anh Hà Thanh S không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ cácĐiều 58, 81, 82, 83, 88, 101 và 102 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 147, Điều 235, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.

Tuyên xử:

1.Về quan hệ con chung: Xác định cháu Hà Lệ Q, sinh ngày 11/5/2013 (Giấy khai sinh số 62, đăng ký khai sinh ngày 05/6/2013 tại UBND thị trấn Phù Y, huyện Phù Y, tỉnh S La) là con riêng của chị Đào Thị G, không phải là con chung của chị Đào Thị G và anh Hà Thanh S.

Chị Đào Thị G, anh Hà Thanh S có quyền liên hệ với cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền để thực hiện cải chính hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch.

2.Về án phí: Chị Đào Thị G, anh Hà Thanh S không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Đào Thị G và anh Vũ Xuân T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Hà Thanh S vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

433
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 19/02/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:07/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:19/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về