TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V H, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 07/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/09/2021 VỀ XIN LY HÔN
Ngày 01 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện VH, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 83/2021/TLST - HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2021 về việc Xin ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/ QĐXX-ST ngày 29 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Sùng Thị DO. Sinh năm 1989.
Địa chỉ: Bản C L, xã L L, huyện VH, tỉnh S L. Có mặt.
Bị đơn: Anh Giàng A D. Sinh năm 1989.
Địa chỉ: Bản C L, xã L L, huyện VH, tỉnh S L.
Hiện đang chấp hành án tại Đội 14, Phân trại 01, Trại giam Xuân Hà, xã Lưu Vĩnh Sơn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.
- Người có QLNVLQ: Ngân hàng chính sách xã hội huyện VH, do ông Bùi Minh Chiến, chức vụ Phó Giám đốc, làm đại diện. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn và lời khai bổ sung tại phiên tòa, chị Sùng Thị DO: Chị và anh Giàng A D tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 07/9/2011, tại UBND xã Lóng Luông, huyện VH, tỉnh Sơn La. Trong quá trình chung sống tuy không xảy ra nhiều mâu thuẫn, nhưng khi chị biết Giàng A D sa đà vào tệ nạn ma túy, đã nhiều lần khuyên can anh D không được, nên chị chán nản, bỏ mặc. Sau đó, anh Giàng A D bị bắt và bị xử phạt tù dài hạn, chị DO nhiều lần đến thăm và đề cập đến việc ly hôn. Hiện nay, chị DO còn trẻ, không thể tiếp tục chờ đợi anh D, do vậy, làm đơn xin Tòa án giải quyết cho ly hôn anh D.
- Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, anh chị sinh được 02 người con là: Giàng Thị Th, sinh ngày 18/11/2006 và Giàng A H, sinh ngày 19/4/2008. Chị cho rằng, anh D đang phải chấp hành án, không có điều kiện chăm sóc các con, nên đề nghị Tòa án xem xét cho chị được nuôi cả hai con đến khi trưởng thành, không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung: Chị Sùng Thị DO cho rằng, anh D đang phải chấp hành án, không tiện yêu cầu Tòa án xem xét vấn đề tài sản chung, khi nào anh D chấp hành trở về, chị sẽ yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết trong một vụ án khác.
- Về nợ chung: Sau khi anh Giàng A D phải đi chấp hành án, chị Sùng Thị DO có đứng tên vay Ngân hàng chính sách xã hội số tiền 30.000.000 đồng để sửa lại nhà. Do vậy, Chị Sùng Thị DO nhận sẽ trả toàn bộ nợ đối với Ngân hàng, kèm lãi phát sinh.
Cuối cùng, nguyên đơn đề nghị HĐXX xem xét cho chị được ly hôn anh Giàng A D, được nuôi con chung, không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung, không yêu càu Tòa án giải quyết về tài sản chung, yêu cầu được trả nợ chung đối với Ngân hàng.
- Bị đơn, anh Giàng A D hiện đang phải chấp hành án tù dài hạn, đã được Tòa án ủy thác tống đạt các văn bản tố tụng cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Kết quả ủy thác, thu thập chứng cứ và tống đạt văn bản tố tụng, anh Giàng A D khai rằng: Anh và chị Sùng Thị DO không xảy ra mâu thuẫn, anh vẫn còn yêu vợ, nên không nhất trí ly hôn. Về con chung, anh D khẳng định có 02 con chung như chị DO trình bày. Tuy nhiên, anh D cho rằng, anh phải chấp hành án tù thì chị DO phải có nghĩa vụ chăm sóc con là đương nhiên. Về nợ chung, anh Giàng A D nhất trí để vợ trả nợ Ngân hàng chính sách xã hội huyện VH 30.000.000 đồng. Cuối cùng, anh bảo vệ quan điểm không nhất trí ly hôn và những lời trình bày như trên.
- Người có QLNVLQ: Ngân hàng chính sách xã hội huyện VH, do ông Bùi Minh Chiến, chức vụ Phó Giám đốc, làm đại Dện trình bày: Khi vay nợ số tiền 30.000.000 đồng của Ngân hàng, chị DO một mình đứng tên vay vốn. Hơn nữa, khi vay Ngân hàng, anh Giàng A D đã phải đi chấp hành án phạt tù, không đứng tên vay vốn. Do vậy, tại phiên tòa, chị Sùng Thị DO nhận sẽ trả toàn bộ tiền vay và lãi phát sinh là phù hợp, đề nghị HĐXX xem xét.
- Đại Dện Viện kiểm sát nhân dân huyện VH phát biểu ý kiến: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng trong thụ lý, giải quyết vụ án thực hiện đúng quy định của pháp luật. Căn cứ khoản 1 điều 51; khoản 1 điều 56; điều 58; điều 81điều 82; điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án: Xét thấy, tình cảm vợ chồng chị DO và anh D không thể hàn gắn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị HĐXX xem xét, xử cho chị Sùng Thị DO được ly hôn anh Giàng A D; Giao 02 cháu Giàng Thị Th, sinh ngày 18/11/2006 và Giàng A H, sinh ngày 19/4/2008 cho chị Sùng Thị DO chăm sóc giáo dục, đến khi các cháu đủ 18 tuổi; không giải quyết vấn đề về tài sản chung, chấp nhận việc chị Sùng Thị DO nhận trả nợ chung. Đề nghị HĐXX xem xét miễn án phí cho chị Sùng Thị DO theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]Về quan hệ hôn nhân: chị Sùng Thị DO và anh Giàng A D tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vì quá sa đà, không nghe vợ khuyên giải, anh Giàng A D phạm tội và phải chấp hành án phạt tù dài hạn. Chị Sùng Thị DO cho rằng, chị còn quá trẻ, không thể đợi anh Giàng A D. Do vậy, để đảm bảo hạnh phúc cho mình, đã nhiều lần chị đến thăm chồng và đề cập việc ly hôn. Sau nhiều lần đến thăm và làm tư tưởng với chồng, chị thấy rằng cần quyết tâm ly hôn để bảo vệ hạnh phúc riêng. Chị cũng thấy rằng, tình cảm vợ chồng với anh Giàng A D thật sự không còn, cũng phần lớn là do anh D không nghe lời khuyên mà sa đà đến mức phạm tội. Do vậy, mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, HĐXX xét thấy, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Sùng Thị DO.
[2] Về con chung: Anh chị có 02 con chung, Giàng Thị Th, sinh ngày 18/11/2006 và Giàng A H, sinh ngày 19/4/2008, hiện 02 cháu đang được chị DO chăm sóc. Anh Giàng A D đang phải chấp hành án tù, không thể chăm sóc các con. Do vậy, để tạo điều kiện tốt nhất cho con, cần chấp nhận đề nghị của chị Sùng Thị DO, giao cả 02 cháu cho chị DO chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu đủ 18 tuổi, không yêu cầu Giàng A D phải cấp dưỡng nuôi con chung.
[3] Về tài sản chung: Nguyên đơn không yêu cầu, không xem xét giải quyết. [4] Về nợ chung: Chị Sùng Thị DO nhận trả toàn bộ nợ chung là 30.000.000 đồng đối với Ngân hàng chính sách xã hội huyện VH, kèm lãi phát sinh. Xét thấy, đây là đề nghị phù hợp, được chấp nhận.
[5] Về án phí: Nguyên đơn, chị Sùng Thị DO là người dân tộc thiểu số, sống nơi địa phương có điều kiện đặc biệt khó khăn. Theo đề nghị của nguyên đơn tại phiên tòa, căn cứ quy định của pháp luật, HĐXX xét thấy, cần miễn án phí cho chị Sùng Thị DO.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35 Bộ luật tố tụng Dân sự; khoản 1 điều 51; khoản 1 điều 56; điều 57; điều 58; khoản 1, 2 điều 81; khoản 1, 3 điều 82; điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Sùng Thị DO được ly hôn anh Giàng A D.
2. Về con chung: Giao 02 cháu Giàng Thị Th, sinh ngày 18/11/2006 và Giàng A H, sinh ngày 19/4/2008 cho chị Sùng Thị DO chăm sóc giáo dục, đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh Giàng A D không phải cấp dưỡng nuôi con cùng, nhưng có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc các con, không ai có quyền ngăn cản.
3. Về tài sản chung: Do nguyên đơn không yêu cầu, Không đặt vấn đề xem xét giải quyết.
4. Về nợ chung: Chị Sùng Thị DO phải trả nợ chung đối với Ngân hàng chính sách xã hội 30.000.000 đồng, kèm lãi phát sinh.
5. Về án phí: Chị Sùng Thị DO được miễn toàn bộ án phí xin ly hôn và án phí giá ngạch, được hoàn lại dự phí xin ly hôn là 300.000 đồng đã nộp, tại biên lai thu tạm ứng án phí số 0003354 ngày 18/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện VH.
6. Về quyền kháng cáo:Nguyên đơn, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án của Tòa án.
Bản án 07/2021/HNGĐ-ST ngày 01/09/2021 về xin ly hôn
Số hiệu: | 07/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về