Bản án 07/2021/DS-ST ngày 26/01/2021 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 07/2021/DS-ST NGÀY 26/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 26 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 133/2020/TLST-DS ngày 14 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2020/QĐXXST-DS ngày 17 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2021/QĐST-DS ngày 05 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lê Minh G, sinh năm 1950 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1954 Cùng địa chỉ: Ấp 11, xã KT, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

Đại diện theo ủy quyền của ông Lê Minh G: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1954 (có mặt). Theo giấy ủy quyền ngày 13/10/2020.

- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị N (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp 11, xã KT, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn bà Nguyễn Thị C trình bày:

Bà và ông Lê Minh G có một số dây hụi, bà Nguyễn Thị N có tham gia chơi hụi do ông bà làm chủ, cụ thể như sau: Dây hụi thứ nhất mở ngày 01/10/2015, loại hụi 500.000 đồng, tổng số 35 chưng, bà Nương tham gia chơi 01 chưng; dây hụi thứ hai mở ngày 06/02/2016, loại hụi 500.000 đồng, tổng số 34 chưng, bà Nương tham gia chơi 01 chưng. Hai chưng hụi bà Nương tham gia đều đã hốt, vợ chồng bà đã giao tiền hụi cho bà Nương đầy đủ nhưng vì thời gian quá lâu bà không nhớ cụ thể số tiền đã giao là bao nhiêu, sau khi hốt hụi bà Nương không đóng tiền hụi chết cho vợ chồng bà nên bà Nương đã làm biên nhận còn nợ vợ chồng bà 20.500.000 đồng tiền hụi, hai dây hụi đều đã mản. Sau khi bà khởi kiện tại Tòa án bà Nương có trả cho vợ chồng bà được 500.000 đồng còn nợ lại 20.000.000 đồng, mặc dù ông bà có đòi tiền hụi nhiều lần nhưng bà Nương vẫn không trả. Nay bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Nương trả cho vợ chồng bà số tiền hụi còn thiếu là 20.000.000 đồng.

- Đối với bà Nguyễn Thị N, Tòa án nhân dân huyện U Minh đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa cùng với giấy triệu tập để tham gia phiên tòa nhưng bà Nương vắng mặt không có lý do và không có ý kiến đối với yêu cầu của ông G và bà C.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh phát biểu: Về thủ tục tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký đã chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của họ, bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng áp dụng Điều 471 của Bộ luật dân sự; Nghị định 144/2006/ NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 về họ, hụi, biêu, phường chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Minh G và bà Nguyễn Thị C về việc đòi tiền góp hụi, buộc bà Nguyễn Thị N phải trả cho ông G và bà C số tiền hụi là 20.000.000 đồng. Về án phí: Áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 mức thu miễn giảm thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án các đương sự phải chị án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Ông Lê Minh G và bà Nguyễn Thị C khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị N trả tiền hụi. Xét đây là quan hệ tranh chấp dân sự về việc “Tranh chấp hụi”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện U Minh theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa bà Nguyễn Thị N vắng mặt không lý do. Do đó, Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bà Nương theo quy định.

[2] Về nội dung: Theo đơn khởi kiện ngày 13 tháng 10 năm 2020 bà Nguyễn Thị C và ông Lê Minh G yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Nguyễn Thị N trả tiền hụi còn thiếu cho bà và ông G trong hai dây hụi mở 01/10/2015 và ngày 06/02/2016 tổng cộng là 20.500.000 đồng, tại phiên tòa bà C xác định sau khi bà và ông G khởi kiện thì bà Nương đã trả cho vợ chồng bà được 500.000 đồng nên bà Nương chỉ còn nợ 20.000.000 đồng, bà yêu cầu bà Nương trả cho vợ chồng bà số tiền 20.000.000 đồng. Xét thấy, việc bà Nương tham gia chơi 02 chưng trong hai dây hụi do ông G và bà C làm chủ, loại hụi 500.000 đồng là có thật thể hiện tại Tờ giao kèo ngày 01/10/2015 và Tờ giao kèo ngày 06/02/2016. Đồng thời, bà Nguyễn Thị N có viết một tờ gấy viết tay với nội dung “hụi mùng 1 tháng 10 năm 2015 35 phần; hụi mùng 6 tháng 2 năm 2016 34 phần làm giấy biên nhận có thiếu hai chưng hụi tổng cộng là 20.500.000 đồng, con Nguyễn Thị N có thiếu thiếm Năm Giá số tiền hai chục triệu năm trăm ngàn đồng Nương Nguyễn Thị N”. Mặt khác, bà Nguyễn Thị N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để tham gia hòa giải, xét xử nhưng bà Nguyễn Thị N vắng mặt không có lý do và không có ý kiến đối với yêu cầu của ông G và bà C nên bà Nguyễn Thị N phải gánh chịu mọi thiệt hại. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Minh G và bà Nguyễn Thị C về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị N trả số tiền hụi là 20.000.000 đồng.

[3] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau là phù hợp nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Án phí dân sự có giá ngạch bà Nguyễn Thị N phải chịu 1.000.000 đồng (20.000.000 đồng x 5% = 1.000.000 đồng). Ông Lê Minh G và bà Nguyễn Thị C không phải chịu án phí và thuộc trường hợp được miễn dự nộp tiền tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 468; Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Chính phủ về hụi, họ, biêu, phường.

Tuyên xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Minh G và bà Nguyễn Thị C về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị N trả tiền hụi.

Buộc bà Nguyễn Thị N trả cho ông Lê Minh G và bà Nguyễn Thị C số tiền hụi 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, nếu chậm thi hành án thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch bà Nguyễn Thị N phải chịu 1.000.000 (Một triệu) đồng.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Ông Lê Minh G và bà Nguyễn Thị C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Nguyễn Thị N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2021/DS-ST ngày 26/01/2021 về tranh chấp hụi

Số hiệu:07/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về