TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA BÌNH, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 07/2020/HS-ST NGÀY 13/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13/11/2020, tại Hội trường UBND xã Thái Bảo, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2020/TLST - HS ngày 14/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2020/QĐXXST-HS ngày 30/10/2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Vũ T, sinh năm 1988 tại Bắc Ninh.
Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện G, tỉnh Bắc Ninh.
Nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Vũ N, sinh năm 1958 và con bà Nguyễn Thị S, sinh năm: 1962; có vợ: Lê Thị L, sinh năm: 1985 (đã ly hôn); con: có 01 con sinh năm 2014.
Tiền án: Không.
Tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 01/QĐ-XPHC ngày 12/3/2020 của Công an xã Thái Bảo huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, xử phạt Nguyễn Vũ T 2.000.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Ngày 21/4/2020, chấp hành xong.
Nhân thân: Bản án số 17/2015/HSST ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, xử phạt Nguyễn Vũ T 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 09/7/2015 thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí HSST. Ngày 30/11/2016 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/8/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Gia Bình. Có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Trần Thanh P, sinh năm 1999, nơi cư trú: Thôn T1, xã T2, huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Đức Đ, sinh năm 1966, nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 8 giờ 30 phút ngày 21/8/2020, Nguyễn Vũ T một mình đi bộ từ nhà đến thôn T1, xã T2, huyện G, tỉnh Bắc Ninh. Khi đi đến đoạn cổng nhà anh Trần Thanh P ở thôn T1, xã T2, huyện G, T nhìn thấy một chiếc xe đạp để ở cổng nhà anh P, trong lồng của chiếc xe đạp có để một chiếc điện thoại di động; quan sát thấy xung quanh không có người qua lại, T tiến lại gần chiếc xe đạp dùng tay trái lấy chiếc điện thoại di động trong lồng xe cất dấu vào trong áo mưa T mang theo từ trước và đi khỏi đó. Khi kiểm tra chiếc điện thoại trộm cắp được thì T biết chiếc điện thoại đó là điện thoại di động Iphone 6s màu trắng, ốp lưng màu đen, bên trong vỏ ốp điện thoại có một chứng minh thư nhân dân mang tên Trần Thanh P và số tiền 150.000 đồng.
Sau khi phát hiện bị mất tài sản, anh Trần Thanh P đã đến Công an xã Thái Bảo trình báo sự việc vào khoảng 10 giờ 40 phút cùng ngày.
Khoảng 12 giờ 35 phút cùng ngày, T đến Công an xã Thái Bảo xin đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình và tự giác giao nộp một điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu trắng, có ốp lưng màu đen, trong gắn sim số 0367390568 và một chứng minh thư nhân dân mang tên Trần Thanh P. Còn số tiền 150.000 đồng, T đã tiêu xài cá nhân hết, chiếc áo mưa mà T sử dụng để cất dấu chiếc điện thoại, T đã vứt bỏ và không nhớ vứt ở đoạn nào nên không thu giữ được.
Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 32/KL-HĐĐG ngày 03/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Gia Bình kết luận:
01 chiếc điện thoại di động Iphone 6s màu trắng đã qua sử dụng có giá trị là 1.675.000 đồng.
01 chiếc ốp lưng điện thoại màu đen đã qua sử dụng có giá trị là 7.500 đồng. Tổng giá trị các tài sản cần định giá là 1.682.500 đồng.
Với nội dung trên, tại bản cáo trạng số 71/CT-VKSGB ngày 13/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Vũ T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, đồng ý với kết quả định giá tài sản của Hội đồng định giá. Mục đích của bị cáo chiếm đoạt tài sản để lấy tiền ăn tiêu cá nhân, bị cáo đã tác động để gia đình bị cáo bồi thường cho anh P số tiền 150.000 đồng mà bị cáo đã chiếm đoạt của anh P. Bị cáo nhận thức rõ và thừa nhận hành vi của mình là phạm tội, xin giảm nhẹ hình phạt.
Bị hại là anh Trần Thanh P vắng mặt tại phiên tòa, tại Cơ quan điều tra anh P trình bày: Vào sáng ngày 21/8/2020, anh có mất 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng phía sau bọc ốp màu đen có gắn sim số thuê bao 0367390568, giữa vỏ ốp điện thoại và điện thoại anh có để số tiền 150.000 đồng và 01 Giấy chứng minh thư nhân dân mang tên anh; điện thoại anh để tại lồng phía trước xe đạp đựng ngay cổng nhà anh. Sau này, anh có biết người trộm cắp tài sản của anh là Nguyễn Vũ T. Anh đã nhận lại được chiếc điện thoại bị trộm cắp, giấy chứng minh thư nhân dân, gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh số tiền 150.000 đồng mà bị cáo đã tiêu xài hết, anh không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Đức Đ vắng mặt tại phiên tòa, tại Cơ quan điều tra ông Đ trình bày: Ông là cậu ruột của Nguyễn Vũ T, khi biết số tiền 150.000 đồng mà T trộm cắp của anh P, T đã tiêu xài cá nhân hết và T có nhắn về gia đình nhờ bồi thường giúp, ông đã bồi thường cho anh P số tiền trên. Nay, ông không yêu cầu T phải trả cho ông số tiền đó và không có yêu cầu gì khác.
Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Vũ T từ 08 tháng tù đến 12 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/8/2020. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.
Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt và có đề nghị xét xử vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt này không ảnh hưởng tới việc giải quyết vụ án, nên Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra, cùng thời gian, địa điểm phạm tội cũng như lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã thể hiện rõ:
Khoảng hơn 8 giờ 30 phút ngày 21/8/2020, tại cổng nhà anh Trần Thanh P ở thôn T1, xã T2, huyện G, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Vũ T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt một số tài sản có giá trị theo kết luận của Hội đồng định giá là: Một điện thoại di động Iphone 6s màu trắng trị giá 1.675.000 đồng; một chiếc ốp lưng điện thoại màu đen trị giá 7.500 đồng và số tiền 150.000 đồng. Tổng cộng là 1.832.500 đồng (Một triệu tám trăm ba mươi hai nghìn năm trăm đồng). Mặc dù giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng, nhưng ngày 12/3/2020, bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản. Do vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Vũ T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, phạm vào điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Bình truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang cho chủ sở hữu tài sản, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, phải được xét xử kịp thời để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:
Bị cáo xác định là người có nhân thân xấu, năm 2015 đã bị xét xử về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tháng 3/2020 bị cáo bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, tình tiết này đã được áp dụng là tình tiết định tội đối với bị cáo. Việc bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản lần này thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật. Do vậy, cần có hình phạt nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo. Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét sau khi phạm tội và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản bị cáo đã ra đầu thú, tự nguyện giao nộp phần lớn tài sản trộm cắp và bị cáo đã tác động để gia đình bị cáo bồi thường toàn bộ số tiền mà bị cáo đã trộm cắp được nhưng tiêu xài cá nhân hết cho bị hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Mặt khác, cũng cần xem xét tới tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo không có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội cũng như không có mục đích trộm cắp tài sản từ trước, gặp điều kiện thuận lợi là chiếc điện thoại để trong lồng xe đạp dựng trước cửa nhà, không có bất cứ ai ở xung quanh nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội.
Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản bị mất và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu gì về số tiền đã bỏ ra bồi thường thay cho bị cáo. Nên không đặt ra xem xét phần trách nhiệm dân sự trong vụ án này.
[6] Đối với ông Trần Đình T, sinh năm 1956, địa chỉ: Thôn T1, xã T2, huyện G, tỉnh Bắc Ninh là người Nguyễn Vũ T khai T đã đưa số tiền 150.000 đồng trộm cắp được để nhờ ông Trần Đình T đi mua đồ ăn, nước uống hộ T. Tuy nhiên, ông Trần Đình T không thừa nhận việc T đã đưa tiền cho ông Trần Đình T và T cũng trình bày khi đưa tiền cho ông Trần Đình T, T không nói cho ông Trần Đình T biết số tiền đó là tiền do T trộm cắp mà có. Do vây, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Bình không xem xét, xử lý đối với ông Trưởng là phù hợp.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Vũ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt : Nguyễn Vũ T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 21/8/2020.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án, theo Quyết định tạm giam số 06/2020/HSST-QĐTG ngày 13/11/2020 của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo phần có liên quan trong bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./
Bản án 07/2020/HS-ST ngày 13/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 07/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Bình - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về