Bản án 07/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ AYUNPA, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 07/2019/HS-ST NGÀY 28/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 6 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thị xã Ayun Pa, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2019/QĐXXST-HS, ngày 14 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

 LDT, sinh năm 1972 tại huyện BL, tỉnh HN; Nơi cư trú: Thôn BH, xã CR, huyện IP, tỉnh GL. Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông LDC (đã chết) và bà PTT (đã chết), có vợ là RLH và 07 con; tiền án: Không, tiền sự: Không; bị tạm giữ ngày 27/01/2019, tạm giam từ ngày 30/01/2019 đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị RLLD, sinh năm 1995; trú tại: Thôn BH, xã CR, huyện IP, tỉnh GL. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người phiên dịch: Ông RAN, người dân tộc Jrai

Trú tại: Tổ 9, phường ĐK, thị xã AP, tỉnh GL. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ ngày 27/01/2019, LDT một mình đón xe khách từ huyện IP, tỉnh GL đi đến thành phố BMT, tỉnh ĐL để mua ma túy nhằm mục đích mang về sử dụng. Khoảng 11 giờ cùng ngày, sau khi đến bến xe tỉnh ĐL, T đón xe ôm đi đến khu vực cây số 03 thuộc phường TA, thành phố BMT tìm người bán ma túy để mua. Tại đây, T đã mua một cục ma túy được gói trong bì nilong với giá 1.500.000 đồng từ một người đàn ông (không rõ lai lịch). Sau khi mua được ma túy, T đi đến chỗ vắng người rồi lấy một ít ma túy ra sử dụng, số còn lại T để trong gói thuốc Jet và cất giấu trong người. Sau khi sử dụng ma túy xong, T đón xe khách về lại huyện IP, tỉnh GL. Đến 14 giờ 45 cùng ngày, xe khách dừng tại đường LTK thuộc tổ dân phố 02, phường CR, thị xã AP, T xuống xe rồi lấy thuốc Jet ra hút, đồng thời lấy ma túy cất trong gói thuốc Jet ra đang cầm trên tay thì bị lực lượng Công an thị xã AP bắt quả tang, thu giữ 01 cục chất rắn, bột màu trắng được gói trong bì nilong, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu trắng vàng và số tiền 390.000 đồng.

- Tại bản Kết luận giám định số 208/KLGĐ ngày 30/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh GL kết luận giám định: Chất màu trắng dạng cục, bột trong bì công văn niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroine, khối lượng 3,1590 gam.

Vật chứng của vụ án gồm:

- 01 (một) gói nilong chứa chất màu trắng dạng cục, bột, có khối lượng (đã trừ bì) là 3,1590 gam. Sau khi đã sử dụng một phần mẫu vật để giám định còn khối lượng 3,1199 gam và vỏ bao gói, được niêm phong vào trong bì công văn của Phòng KTHS Công an tỉnh GL;

- Tiền Việt Nam: 390.000 đồng (01 tờ tiền polime mệnh giá 200.000 đồng; 19 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng);

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5, màu trắng vàng đã qua sử dụng, không kiểm tra bên trong. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã AP xác định chiếc điện thoại nêu trên không liên quan đến vụ án nên đã trao trả lại chủ sở hữu là chị RLLD (con gái ruột của bị cáo LDT).

Tại Cáo trạng số 06/CT-VKS ngày 17/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã AP, tỉnh GL truy tố bị cáo LDT về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo LDT đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã AP, tỉnh GL đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã AP, tỉnh GL giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo LDT về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo LDT từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù giam.

Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 3,1199 gam ma túy, loại Heroine còn lại sau giám định.

- Trả lại cho bị cáo LDT số tiền 390.000 đồng.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến tranh luận gì với đề nghị của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

 NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa không có người nào ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định tội danh của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo LDT tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, làm rõ tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có căn cứ khẳng định: Vào ngày 27/01/2019, tại tổ dân phố 02, phường CR, thị xã AP, tỉnh GL bị cáo LDT có hành vi tàng trữ, cất giấu trái phép 3,159 gam ma túy, loại Heroine với mục đích sử dụng theo như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã AP, tỉnh GL đã truy tố là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

 [3] Về tính chất, mức độ phạm tội: Hành vi tàng trữ ma túy trái phép với khối lượng 3,159 gam là nghiêm trọng, theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm họa đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Trong vụ án này, quá trình điều tra không xác định được người bán ma túy cho bị cáo LDT là ai nên không có căn cứ để xử lý.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo LDT có hoàn cảnh gia đình khó khăn (thuộc hộ nghèo), gia đình đông con nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

Đối với 3,1199 gam ma túy, loại Heroine còn lại sau giám định là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 390.000 đồng đã thu giữ không liên quan đến vụ án nên trả lại cho bị cáo LDT.

Đối với 01 điện thoại di động đã thu giữ hiệu Iphone 5, màu trắng vàng. Quá trình điều tra, xác định chiếc điện thoại trên không liên quan đến vụ án nên đã trao trả lại chủ sở hữu là chị RLLD (con gái ruột của bị cáo LDT) là đúng quy định, hiện chị D cũng không có ý kiến gì.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật để nộp vào ngân sách Nhà nước.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo LDT phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Xử phạt bị cáo LDT 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, ngày 27/01/2019.

 2. Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 3,1199 gam ma túy, loại Heroine còn lại sau giám định.

- Trả lại cho bị cáo LDT số tiền 390.000 đồng.

Vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự thị xã AP, tỉnh GL đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/4/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã AP và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã AP, tỉnh GL.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo LDT phải chịu 200.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước;

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 28/6/2019) bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền làm đơn kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HS-ST ngày 28/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:07/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ayun Pa - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về