Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 05/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 07/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/03/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 05 tháng 3 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 662/2018/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2018 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:01/2019/QĐXXST - HNGĐ ngày 16/01/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2018/QĐST-HNGĐ ngày 13/02/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1996. Có mặt

ĐKHKTT: Số 425/22, khóm 3, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang

2. Bị đơn: Anh Huỳnh Minh N, sinh năm 1996. Vắng mặt

ĐKHKTT: Tổ 5, khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/8/2018 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị M và anh N quen biết, tìm hiểu và tự nguyện tiến đến hôn nhân năm 2014, đăng ký kết hôn trễ hạn vào ngày 05/9/2016 tại UBND phường M, thành phố L, đây là hôn nhân lần thứ nhất của chị và anh Nhựt. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không phù hợp, hai bên đã hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Khoảng 01 năm nay, chị và anh N không chung sống với nhau, tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Nhi yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh N.

Về quan hệ con chung: Chị M và anh N có 01 con chung tên Huỳnh Tiến P, sinh ngày 10/9/2014. Chị M đang nuôi cháu P và yêu cầu được tiếp tục nuôi con sau ly hôn.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị M yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con theoquy định pháp luật.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Huỳnh Minh N vắng mặt trong quá trình tố tụng, không gửi văn bản trình bày ý kiến phản đối cũng như chứng cứ chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa Hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

* Nguyên đơn chị Nguyễn Thị M vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Về hôn nhân: yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho chị M được ly hôn với anh N, vì cả hai có nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn; Về con chung: yêu cầu được nuôi con chung và yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 700.000đ; Về tài sản chung, nợ chung: không có.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, thành phần Hội đồng xét xử cũng như xác định quan hệ tranh chấp, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trong vụ án đúng theo quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn theo quy định tại Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình; Về con chung: hiện con chung đang sống với chị M, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị M được quyền nuôi con; Về cấp dưỡng nuôi con: chị M yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật là phù hợp; Về tài sản chung, nợ chung: chị M cho rằng không có tài sản chung nên đề nghị không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng đét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng:

 [1] Tranh chấp giữa chị Nguyễn Thị M và anh Huỳnh Minh N là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Bị đơn có đăng ký thường trú tại phường M, thành phố L nên nguyên đơn khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố L theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

 [3] Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai nhưng Tòa án đã tiến hành tống đạt trực tiếp, niêm yết các văn bản tố tụng cho bị đơn hợp lệ. Như vậy, từ khi Tòa án thụ lý đến ngày xét xử vụ án bị đơn đã từ chối các quyền, cũng như không thực hiện nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

 [4] Bị đơn có địa chỉ cư trú rõ ràng, địa phương vẫn còn quản lý nhân khẩu. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017. Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn Huỳnh Minh N.

Về nội dung tranh chấp:

 [1] Về hôn nhân: Nguyên đơn, bị đơn tiến đến hôn nhân xuất phát từ sự nguyện, có đăng ký kết hôn theo qui định của pháp luật, phù hợp Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, quá trình chung sống chị M cho rằng vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thiếu chia sẻ, cảm thông nhau trong đời sống vợ chồng, anh N không có trách nhiệm với gia đình, chị N đã nhiều lần cho cơ hội nhưng anh N không thay đổi nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Anh N không có ý kiến phản đối.

Xét thấy, trong hôn nhân vợ chồng phải thể hiện tình cảm yêu thương, quan tâm chăm sóc, tin tưởng nhau và chia sẻ những khó khăn để vượt qua thử thách, đây là cơ sở vững chắc để bồi đắp cho hôn nhân, cho gia đình hạnh phúc. Giữa nguyên đơn, bị đơn đã có thời gian quen biết, tìm hiểu và tiến đến hôn nhân xuất phát từ tình cảm yêu thương, nhưng khi đã thành vợ chồng thì cả hai không xây dựng gia đình hạnh phúc. Tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân được chính quyền địa phương xác nhận “Huỳnh Minh N và Nguyễn Thị M hiện nay không còn sống chung” cũng như chi M cho rằng vợ chồng đã ly thân hơn

01 năm nên hôn nhân không tồn tại, vợ chồng không còn thực hiện quyền và nghĩa vụ với nhau, không còn tình cảm yêu thương, chăm sóc nhau, điều này thể hiện mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 51; Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [2] Về con chung: Chị M và anh N có 01 con chung tên Huỳnh Tiến P, sinh ngày 10/9/2014.

Chị M yêu cầu được nuôi con chung sau ly hôn nhưng anh N không có ý kiến phản đối. Xét thấy, tại biên bản xác minh tình trạng hôn nhân, chính quyền địa phương xác nhận “Con chung Huỳnh Tiến P, sinh năm 2014, hiện nay chị Nguyễn Thị M nuôi”. Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tốt về thể chất, tinh thần và đảm bảo cho việc học hành cho con chung cũng như xem xét điều kiện, hoàn cảnh và thu nhập cá nhân của chị N (công nhân may). Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Nhi được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Chị M và gia đình của chị M phải tạo điều kiện cho anh N được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

 [3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh N phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Huỳnh Tiến P hàng tháng là 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng). Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu luật pháp luật cho đến khi con chung trưởng thành, khỏe mạnh và có khả năng tự lập nuôi sống bản thân.

 [4] Về tài sản chung: Chị M cho rằng không có tài sản chung, anh Nkhông có ý kiến phản đối nên Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5] Về nợ chung: Không có

 [6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị M phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm theo qui định pháp luật.

 [7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn Huỳnh Minh N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

 [8] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo theoquy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 235; điểm b khoản 1 Điều 238; Điều 266; khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015;Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 107; Điều 110; Điều 116; Điều 117; Điều 118; Điều 119 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 6 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt bị đơn Huỳnh Minh N

* Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị M được ly hôn với anh HuỳnhMinh N.

[2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị M được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Huỳnh Tiến P, sinh ngày 10/9/2014.

Chị M và gia đình của chị M phải tạo điều kiện cho anh N được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

 [3] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh N phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung Huỳnh Tiến P hàng tháng là 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng). Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày bản án có hiệu luật pháp luật cho đến khi con chung trưởng thành, khỏe mạnh và có khả năng tự lập nuôi sống bản thân. Việc cấp dưỡng nuôi con không cố định.

 [4] Về tài sản chung: Không xem xét, giải quyết. [5] Về nợ chung: Không có

 [6] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị M phải nộp300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố L. Chị M đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí

 [7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn Huỳnh Minh N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.

 [8] Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2019/HNGĐ-ST ngày 05/03/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:07/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về