Bản án 07/2018/HS-PT ngày 16/01/2019 về tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 07/2018/HS-PT NGÀY 16/01/2019 VỀ TỘI CHIẾM ĐOẠT NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Ngày 16 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 93/2018/TLPT-HS ngày 04 tháng 12 năm 2018 đối với bị cáo Trương Văn X do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2018/HS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trương Văn X, sinh ngày 01/01/1985, tại huyện Đ, tỉnh Cà Mau. Nơi cư trú: Ấp H, xã N, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn P, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị M (đã chết); tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 13/6/2018 tạm giam đến nay (có mặt).

- Bị hại: Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 10/7/2012. Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Quốc V, sinh năm 1985 và bà Nguyễn Yến N, sinh năm 1990. Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau, (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Trương Văn X và Nguyễn Thị H (sinh năm 1972, cư trú tại ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau) sống chung với nhau như vợ chồng khoảng 4 năm tại huyện Đ, tỉnh Cà Mau. Trong thời gian sống chung với nhau thì bị cáo Trương Văn X thường xuyên đánh Nguyễn Thị H, nên chị H bỏ đi về sống chung với mẹ ruột ở ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau. Sau khi Nguyễn Thị H bỏ đi thì bị cáo X cũng có đi tìm kiếm để kêu H quay lại sống chung với mình nhưng không gặp.

Vào ngày 09/6/2018, bị cáo Trương Văn X từ huyện Đ, tỉnh Cà Mau đến nhà của em rể tên là Lê Văn T (tên gọi khác C) tại ấp T, xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu. Sáng ngày 10/6/2018, bị cáo Trương Văn X điện thoại cho Nguyễn Quốc V xuống nhà của C để coi xe (vì bị cáo X và V ở gần nhau và đi làm thuê chung nên X biết V muốn đổi xe khác). Sau đó, Nguyễn Quốc V cùng với vợ là Nguyễn Yến N và con là Nguyễn Quỳnh N, sinh ngày 10/7/2012 chạy xe từ ấp T, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau đến nhà của C. Khi V đến bị cáo đi hái rau muống để nhúng lẩu nhậu, bị cáo Trương Văn X đi thì Lê Văn T, Trương Văn T (là con anh C) và Nguyễn Quỳnh N cũng đi theo. Đi đến đoạn đường vắng nhà thuộc vuông tôm của anh Nguyễn Việt Q tại ấp T, xã N, huyện H thì bị cáo Trương Văn X nảy sinh ý định dẫn cháu Nguyễn Quỳnh N đem đi giấu để khống chế buộc cha của N là anh Nguyễn Quốc V phải kêu chị Nguyễn Thị H ra gặp mặt tiếp tục sống chung như vợ chồng với bị cáo X (vì bị cáo X biết anh V là cháu của H, kêu H bằng dì và có uy tín với H nếu anh V nói thì H sẽ nghe lời), nên bị cáo Trương Văn X nói với cháu Nguyễn Quỳnh N “con đi theo ông dượng chơi nghe”, sau đó, bị cáo Trương Văn X mới kêu Lê Văn T và Trương Văn T đi về, còn bị cáo X thì dẫn cháu N đi theo đường ấp N, xã N ra đến chợ P rồi lên xe buýt đi Bạc Liêu để đem cháu N đi giấu.

Lúc này, chị Nguyễn Yến N mẹ của cháu N không thấy cháu N về nên hỏi Trương Văn T thì T nói bị cáo Trương Văn X đã dẫn N đi, anh Nguyễn Quốc V chạy xe chở Tài đi tìm nhưng không gặp và V điện thoại cho bị cáo X nhiều lần nhưng bị cáo X không bắt máy. Khi bị cáo Trương Văn X đi đến Bạc Liêu, bị cáo X điện thoại về nói với Nguyễn Quốc V là “kêu dì của V (tức là chị Nguyễn Thị H vợ của bị cáo X) lên cầu Sập để gặp bị cáo X thì mới trả con lại cho V”. Sau khi nghe bị cáo Trương Văn X nói như vậy, anh V điện thoại cho chị Nguyễn Thị H biết nhưng chị H không lên gặp bị cáo X. Vì sợ bị phát hiện nên bị cáo Trương Văn X dẫn cháu N đến nhà của chị ruột tên Trương Thị G (tên gọi khác X) tại ấp P, xã M, huyện M, tỉnh Sóc Trăng. Khi đến nhà chị Trương Thị G là hơn 22 giờ ngày 10/6/2018, bị cáo Trương Văn X không nói cho chị G biết việc mình dẫn cháu N đi giấu mà nói cháu N đòi đi theo chơi. Cùng lúc này thì vợ chồng anh Nguyễn Quốc V cũng chạy xe lên cầu Sập Bạc Liêu để tìm nhưng không gặp, đến ngày 12/6/2018 anh V chị N đến Công an xã N, huyện H, tỉnh Bạc Liêu trình báo sự việc.

Ngày 13/6/2018, Công an huyện H bắt giữ bị cáo Trương Văn X, đồng thời đưa cháu Nguyễn Quỳnh N đến Trung tâm y tế huyện M, tỉnh Sóc Trăng để kiểm tra sức khỏe và trả cháu N về cho cha mẹ cháu an toàn.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trương Văn X phạm tội “Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi”. Áp dụng khoản 1 Điều 153; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trương Văn X 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 13/6/2018.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 05 tháng 11 năm 2018, bị cáo Trương Văn X kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm: Chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo là hợp lệ. Về nội dung: Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền được bảo vệ, chăm sóc và tự do thân thể của bị hại, bằng thủ đoạn lừa dối để chiếm giữ bị hại một cách trái pháp luật. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến tình hình an ninh tại địa phương nên cần xử lý nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định. Khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng xử phạt bị cáo 03 năm tù là mức án nhẹ nhất cho bị cáo. Ngoài ra, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trương Văn X và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2018/HS-ST ngày 23 tháng 10 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trương Văn X thừa nhận: Vào ngày 10/6/2018, bị cáo đã dụ dỗ cháu Nguyễn Quỳnh N sinh ngày 10/7/2012 thoát khỏi sự quản lý của cha, mẹ cháu N để đi theo bị cáo nhằm chiếm đoạt cháu N để thực hiện động cơ tư lợi cá nhân của bị cáo là được gặp mặt chị H. Đến ngày 13/6/2018 thì bị cáo bị Công an huyện H bắt giữ. Do vậy, bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi” là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Trương Văn X xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền được bảo vệ, chăm sóc và tự do thân thể của bị hại, bằng thủ đoạn lừa dối để chiếm giữ bị hại một cách trái pháp luật, khi thực hiện hành vi, bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo biết rõ việc dụ dỗ bị hại đi cùng bị cáo với mục đích để cho vợ bị cáo là chị H ra gặp bị cáo là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn cố ý trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ đã ảnh hưởng lớn đến tâm lý lo lắng của bị hại và gia đình bị hại, đồng thời gây hoang mang trong dư luận và ảnh hưởng lớn đến tình hình an ninh tại địa phương. Do vậy, với hành vi chiếm đoạt người dưới 16 tuổi mà bị cáo đã thực hiện cần phải xử phạt nghiêm khắc để răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Khi xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 03 năm tù là tương xứng với tính chất mức độ vi phạm của bị cáo. Sau khi xét xử sơ bị cáo không cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới so với cấp sơ thẩm nên Hội đồng xét xử không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[3] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy, đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ nên được chấp nhận.

[4] Bị cáo Trương Văn X kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo qui định của pháp luật.

[5] Các phần quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm đối với bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trương Văn X, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu. 

2.Tuyên bố bị cáo Trương Văn X phạm tội “Chiếm đoạt người dưới 16 tuổi"

Áp dụng khoản 1 Điều 153; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trương Văn X 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 13/6/2018.

3. Về án phí: Áp dụng các điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Trương Văn X phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần Quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số: 21/2018/HS-ST ngày 23/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

382
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2018/HS-PT ngày 16/01/2019 về tội chiếm đoạt người dưới 16 tuổi

Số hiệu:07/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về