Bản án 07/2018/HNGĐ-ST ngày 30/01/2018 về ly hôn, nuôi con sau ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 07/2018/HNGĐ-ST NGÀY 30/01/2018 VỀ LY HÔN, NUÔI CON SAU LY HÔN

Ngày 24/01/2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 224/2017/TLST-HNGĐ ngày 06/10/2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/12/2017 và quyết định hoãn phiên tòa số 02/2018/QĐST ngày 09/01/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Đỗ Thị T, sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT: bản Đ, xã K, huyện N, tỉnh Ninh Bình; Chỗ ở hiện nay: số nhà T12, đường H, phường 15, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: anh Bùi Văn H, sinh năm 1991; Địa chỉ: bản Đ, xã K, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

(Chị T có mặt; anh H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 05/10/2017 và quá trình cung cấp chứng cứ, Nguyên đơn chị Đỗ Thị T trình bày:

* Về quan hệ hôn nhân: Ngày 19/01//2015 chị đăng ký kết hôn với anh Bùi Văn H tại Uỷ ban nhân dân xã K trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng chị thuê nhà ở quận 10, thành phố Hồ Chí Minh để làm ăn sinh sống. Từ khi kết hôn cuộc sống vợ chồng chị hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn dẫn tới vợ chồng thường xuyên cãi chửi lẫn nhau. Đến tháng 8/2016 do mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nên anh H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở bản Đ, xã K, huyện N sinh sống. Từ đó vợ chồng chị sống ly thân không ai quan tâm tới ai nữa. Nguyên nhân chính dẫn tới mâu thuẫn vợ chồng chị là do anh H không chịu tu chí làm ăn, chăm lo cho hạnh phúc gia đình, thường xuyên uống rượu rồi về nhà đánh chửi chị. Nay chị nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự sâu sắc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Văn H.

* Về con chung: Chị T xác định chị và anh Bùi Văn H có 01 con chung là cháu Bùi Gia H1, sinh ngày 24/7/2015. Từ 25/7/2016 đến tháng 11/2017 cháu ở với anh H và ông bà nội là ông Bùi Văn N, bà Bùi Thị L ở bản Đ, xã K, huyện N. Từ tháng 11/2017 chị T đã đón cháu H1 về ở với chị tại thành phố Hồ Chí Minh. Nếu ly hôn chị có nguyện vọng được tiếp tục nuôi cháu Gia H1.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con.

* Về tài sản chung, công nợ chung: Chị T xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Bùi Văn H: Mặc dù đã biết việc Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý giải quyết vụ án về việc chị Đỗ Thị T xin ly hôn với anh, nhưng anh H vẫn không gửi văn bản trả lời thông báo thụ lý vụ án đến Tòa án và cũng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.

Tại phiên tòa hôm nay: Chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình và đề nghị Tòa án giải quyết theo qui định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N có quan điểm:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án:

* Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử:

Về thẩm quyền giải quyết vụ án: do bị đơn có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú tại bản Đ, xã K, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Toà án nhân dân huyện N thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các điều 28, 35 và 39 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Việc thụ lý vụ án đúng quy định của pháp luật.

Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách tố tụng trong vụ án đầy đủ, chính xác.

Về thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 203 BLTTDS, Quyết định đưa vụ án ra xét xử đảm bảo về hình thức, nội dung.

Thời hạn gửi hồ sơ, văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát đảm bảo quy định của pháp luật, việc tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự thực hiện đúng quy định của BLTTDS.

Việc giao nộp tài liệu chứng cứ: thực hiện đúng các quy định tại Điều 96 BLTTDS, các tài liệu là bản sao đều có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.

* Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và Thư ký tại phiên tòa:

Phiêntòa hôm nay diễn ra theo thời gian với thành phần Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đúng như trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên toà hôm nay Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của BLTTDS.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

Nguyên đơn thực hiện đúng các quy định tại các Điều 70, 71 BLTTDS.

Bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật không đến tham gia phiên tòa mặc dù đã được triệu tập hợp lệ.

- Về đường lối giải quyết: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và xử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Xử ly hôn giữa chị Đỗ Thị T và anh Bùi Văn H.

Về con chung: Giao cháu Bùi Gia H1, sinh ngày 24/7/2015 cho chị Đỗ Thị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Huy đủ 18 tuổi. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về án phí chị T nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xét thấy:

[1]. Về tố tụng:

- Về quan hệ pháp luật tranh chấp: đây là vụ án “Tranh chấp về ly hôn” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

- Về sự vắng mặt của anh Bùi Văn H: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân huyện N đã ra thông báo về việc thụ lý vụ án và gửi thông báo thụ lý vụ án cho anh H theo quy tại điều 196 Bộ luật tố tụng dân sự. Theo xác định của Ủy ban nhân dân xã K, huyện N thì thời điểm chị Đỗ Thị T xin ly hôn với anh Bùi Văn H, anh H vẫn sinh sống tại bản Đ, xã K, huyện N cùng với bố mẹ anh H. Mặt khác, tại bản tự khai ngày 01/12/2017 của bố đẻ anh H là ông Bùi Văn N, ông N cũng xác định hiện anh H đang ở với vợ chồng ông. Các văn bản tố tụng của Tòa án nhân dân huyện N ông Nguyên đã nhận và thông báo cho anh H xong anh H không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện N vẫn tiến hành giải quyết vụ án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

[2]. Về nội dụng khởi kiện: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đương sự cung cấp và Tòa thu thập được, thấy rằng:

- Quan hệ hôn nhân giữa chị Đỗ Thị T và anh Bùi Văn H là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chị T, anh H thuê nhà chung sống tại quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Quá trình chung sống vợ chồng chị T, anh H hạnh phúc được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng thường xuyên đánh chửi lẫn nhau. Nguyên nhân là do anh H thường xuyên rượu chè, không chịu tu chí làm ăn chăm lo cho hạnh phúc gia đình. Đến tháng 8/2016 sau khi vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, anh H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở bản Đ, xã K, huyện N, tỉnh Ninh Bình sinh sống. Kể từ đó vợ chồng chị T, anh H chính thức sống ly thân không ai quan tâm đến ai nữa. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị T, anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ cần chấp nhận, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

- Về con chung: Chị Đỗ Thị T và anh Bùi Văn H có 01 con chung là cháu Bùi Gia H1, sinh ngày 24/7/2015; hiện nay cháu H1 đang ở với chị T tại quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Xét cháu Bùi Gia H1 còn nhỏ, tính đến thời điểm xét xử cháu mới 02 năm 06 tháng 06 ngày tuổi. Do vậy, để đảm bảo lợi ích mọi mặt của cháu nên giao cháu Bùi Gia H1 cho chị Đỗ Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là có căn cứ theo khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Về cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung; xét đây là sự tự nguyện của đương sự và phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

- Về tài sản chung, công nợ chung: Chị T xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, HĐXX không xem xét là phù hợp.

[3]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: chị T phải nộp theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điều 28, 147, 227 và 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.

1. Xử ly hôn giữa chị Đỗ Thị T và anh Bùi Văn H.

2. Về con chung: Giao cháu Bùi Gia H1, sinh ngày 24/7/2015 hiện cháu H1 đang ở với chị T cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu H1 đủ 18 tuổi. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Khi cần các bên có quyền thay đổi việc nuôi con chung.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: chị Đỗ Thị T xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Án phí ly hôn sơ thẩm chị Đỗ Thị T phải nộp là 300.000đ. Được trừ vào số tiền tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp 300.000đ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2013/0000530 ngày 06/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

Chị T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

711
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2018/HNGĐ-ST ngày 30/01/2018 về ly hôn, nuôi con sau ly hôn

Số hiệu:07/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về