Bản án 07/2018/HNGĐ-ST ngày 29/03/2018 về kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 07/2018/HNGĐ-ST NGÀY 29/03/2018 VỀ KIỆN LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 29/3/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 330/2017/TLST-HNGĐ, ngày

27 tháng 11 năm 2017 về “Kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/02/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2018/QĐST-HNGĐ ngày 15/3/2018, giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Hà Thị V, sinh năm: 1986 (Có mặt).

2/ Bị đơn: Anh Phạm Khắc D, sinh năm: 1984 (Vắng mặt).

Cùng trú tại: Thôn 2A, xã E, huyện K, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, tại các biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Hà Thị V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị V và anh Phạm Khắc D kết hôn và tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Uỷ ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đ ngày 01/12/2008 trên cơ sở tự nguyện hai bên. Trong quá trình chung sống: Chị Hà Thị V và anh Phạm Khắc D sống không hạnh phúc, nguyên nhân do anh D thường xuyên uống rượu, đánh bài bạc rồi ghen tuông vô cớ và đánh đập chị nhiều lần. Do không chịu đựng được nên chị V sống ly thân với anh D từ tháng 11 năm 2016 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể quay lại chung sống nên chị V làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Phạm Khắc D.

Về con chung: Chị Hà Thị V và anh Phạm Khắc D có 02 con chung là cháu Phạm Văn D, sinh ngày 13/10/2004; cháu Phạm Văn N, sinh ngày 22/11/2008. Chị Hà Thị V có nguyện vọng nhận nuôi 02 con chung cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hà Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung và tài sản chung: Chị Hà Thị V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 15 tháng 12 năm 2017 và tại phiên hòa giải, bị đơn anh Phạm Khắc D trình bày: Anh nhất trí với các nội dung chị Hà Thị V trình bày về quan hệ hôn nhân và con chung. Anh và chị Hà Thị V kết hôn và tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Uỷ ban nhân dân xã E, huyện K, tỉnh Đ ngày 01/12/2008 trên cơ sở tự nguyện hai bên. Trong quá trình chung sống: Những năm đầu vợ chồng sống hạnh phúc. Nhưng từ khoảng năm 2016 đến nay, vợ chồng xảy mâu thuẫn, nguyên nhân do anh D thỉnh thoảng có đi uống rượu dẫn đến vợ chồng xảy ra cãi vã. Nhiều lúc chị V hay nhắn tin và gọi điện thoại cho người lạ, anh D hỏi thì chị V không nói, lúc tức giận anh có đánh chị V. Chị V đã sống ly thân  với anh D từ tháng 11 năm 2016 cho đến nay.Chị Hà Thị  V làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh. Anh D vẫn mong muốn chị V quay về cùng nhau nuôi dạy con cái nên anh D không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh Phạm Khắc D và chị Hà Thị V có 02 con chung là cháu Phạm Văn D, sinh ngày 13/10/2004; cháu Phạm Văn N, sinh ngày 22/11/2008. Anh D có nguyện vọng nhận nuôi 02 con chung cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi và không yêu cầu Tòa án giải quyết cấp dưỡng nuôi con chung.

Về nợ chung và tài sản chung: Anh Phạm Khắc D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự  khai ngày 20/12/2017, cháu Phạm Văn D và cháu Phạm Văn N trình bày: Trong gia đình, cháu D và cháu N thấy bố D và mẹ V sống không hòa thuận vì bố D thường xuyên uống rượu rồi về đánh mẹ V. Trong trường hợp bố D và mẹ V ly hôn, cháu D và cháu N có nguyện vọng muốn được ở với mẹ.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đồng thời phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn, đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với bị đơn anh Phạm Khắc D vắng mặt là vi phạm quy định về quyền và nghĩa vụ theo quy định tại các Điều 70, Điều 72 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hà Thị V.

Về cong chung: Căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, theo nguyện vọng của cháu Phạm Văn D và cháu Phạm Văn N; Đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu D và cháu N cho chị Hà Thị V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi các cháu D, cháu N đủ 18 tuổi. Anh Phạm Khắc D có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hà Thị V không yêu cầu, nên đề nghị HĐXX không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị Hà Thị V không yêu cầu, nên đề nghị HĐXX không đề cập giải quyết.

Về án phí: Chị Hà Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ  thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định về nội dung vụ án như sau:

[1] Về hình thức: Căn cứ đơn khởi kiện ngày 23/11/2017, của chị Hà Thị V, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk  xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Kiện ly hôn và tranh chấp về nuôi con chung” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk đã giao thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đương sự và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và phiên hòa giải cho các đương sự theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Căn cứ theo Điều 203, 204, 220 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk lập hồ sơ và ra quyết định xét xử vụ án đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị V và anh Phạm Khắc D có đăng ký kết hôn luật tại UBND xã E, huyện K, tỉnh Đ ngày 01/12/2008 trên cơ sở tự nguyện hai bên. Quan hệ hôn nhân giữa chị V và anh D là hợp pháp. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng chị V và anh D không hạnh phúc. Từ đầu năm 2016, vợ chồng anh, chị phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân do anh D thường xuyên đi uống rượu, ghen tuông vô cớ, không lo làm ăn và đánh chị V. Dẫn đến chị V không chịu đựng được nên đã sống ly thân với anh D từ năm 2016 cho đến nay.

Theo kết quả xác minh tại địa phương cung cấp thông tin như sau: Anh Phạm Khắc D làm nông tại địa phương, hiện nay vợ chồng anh D và chị V đã sống ly thân. Trong quá trình chung sống tại địa phương anh D thường xuyên uống rượu, ghen tuông vô cớ và đánh đập chị V, vợ chồng thường xảy ra cãi nhau. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị V và anh D đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hà Thị V, cho chị Hà Thị V được ly hôn với anh Phạm Khắc D là có căn cứ pháp luật.

[4] Về con chung: Trong thời gian chung sống, chị Hà Thị V và anh Phạm Khắc D có hai con chung là cháu Phạm Văn D, sinh ngày 13/10/2004 và Phạm Văn N, sinh ngày 22/11/2008. Hiện nay các cháu đang sinh sống cùng ông, bà nội tại xã E, huyện K, tỉnh Đ. Nguyện vọng của các cháu là muốn được sinh sống cùng với mẹ. Chị V và anh D đều có nguyện vọng nhận nuôi 02 con chung đến khi các con đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử nhận thấy trên cơ sở nguyện vọng của cháu Phạm Văn D và Phạm Văn N, cũng như điều kiện và khả năng chăm sóc cho các cháu thì anh Phạm Khắc D không có việc làm ổn định, thường xuyên say rượu nên chị V nuôi dưỡng, chăm sóc các cháu sẽ đảm bảo cuộc sống cho cháu D và cháu N. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 81, khoản 1, khoản 3 Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu cháu Phạm Văn D; Phạm Văn N cho chị Hà Thị V nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi các cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động để tự nuôi sống mình. Anh Phạm Khắc D có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung, không ai được ngăn cản thực hiện quyền này.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hà Thị V không yêu cầu anh Phạm Khắc D phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không đề cập giải quyết.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Hà Thị V và anh Phạm Khắc D không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án, chị Hà Thị V phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Xét quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa là có căn cứ và đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm d khoản 3 Điều 203,  Điều 220; Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Khoản 1 Điều 51; Khoản 1 Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hà Thị V. Chị Hà Thị V được ly hôn với anh Phạm Khắc D.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Văn D, sinh ngày 13/10/2004 và Phạm Văn N, sinh ngày 22/11/2008 cho chị Hà Thị V nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi các cháu đủ 18 tuổi và có khả năng lao động để tự nuôi sống mình. Anh Phạm Khắc D có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung, không ai được ngăn cản.

3.Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hà Thị V không yêu cầu anh Phạm Khắc D phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không đề cập giải quyết.

4.Về tài sản chung và nợ chung: Chị Hà Thị V và anh Phạm Khắc D không yêu cầu nên Tòa án không giải quyết.

5. Về án phí: Chị Hà Thị V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai số AA/2017/0001491 ngày 23 tháng 11 năm 2017.

6. Về  quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn anh Phạm Khắc D vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 07/2018/HNGĐ-ST ngày 29/03/2018 về kiện ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:07/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Pắc - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về