TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LAI CHÂU, TỈNH LAI CHÂU
BẢN ÁN 07/2017/HSST NGÀY 08/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 08 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 07/2017/HSST ngày 17 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2017/HSST- QĐ ngày 26/10/2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Vàng Lòng X; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1995 tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Bản B, xã H, huyện T, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Hà Nhì; Con ông: Vàng Xé C và con bà Lý Go X; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/7/2017 đến ngày 18/7/2017 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lai Châu, có mặt tại phiên toà.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Công H – Trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Lai Châu. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 15/7/2017 tại khu vực đường phía sau Siêu thị Điện máy xanh thuộc tổ 9, phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu Vàng Lòng X mang theo 01 gói Heroin với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang và thu giữ ở tay trái của X 01 gói Heroin được gói bên ngoài bằng nilon màu hồng và 01 điện thoại di động màu đen, nhãn hiệu Nokia.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo X thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.
Các vấn đề khác của vụ án:
Theo lời khai của X, nguồn gốc số ma túy X tàng trữ là do X mua của một người đàn ông tên N vào ngày 15/7/2017, tuy nhiên việc mua bán này không ai chứng kiến, trong hồ sơ chỉ có duy nhất lời khai của X không có tài liệu khác chứng minh, X cũng không rõ địa chỉ của người đàn ông tên N nên không đủ cơ sở để xem, xét xử lý.
Theo Kết luận giám định số 312/GĐ – KTHS ngày 01/8/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu vật thu giữ của Vàng Lòng X trong quá trình bắt quả tang ngày15/7/2017 gửi đến giám định có trọng lượng là 0,72 gam là Heroin (không hoàn lại mẫu vật gửi giám định).
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về quyết định nêu trên.
Bản cáo trạng số 48/KSĐT – MT ngày 16/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu đã truy tố bị cáo Vàng Lòng X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, Nghị quyết 41/2017/QH14 xử phạt bị cáo X từ 16 đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2017. Áp dụng khoản 5 Điều 194 BLHS miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41BLHS, điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS tịch thu, tiêu hủy 0,47gam Heroin, trả lại cho bị cáo X 01 chiếc điện thoại Nokia, màu đen, số IMEL: 353300/05/328327/8, bên trong máy có 01 sim điện thoại.
Quan điểm của người bào chữa tại phiên tòa: Về hành vi của bị cáo là nhất thời phạm tội do thiếu hiểu biết pháp luật, mục đích bị cáo tàng trữ ma túy là để sử dụng cho bản thân nên hậu quả gây ra cho xã hội đã được ngăn chặn; Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở khu vực có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; Tuy trước đây bị cáo bị xét xử nhưng đã được xóa án tích theo Điều 63BLHS, vì vậy nên coi bị cáo là người có nhân thân tốt. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 khoản 2 Điều 46 BLHS; áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 194 BLHS, điểm h, khoản 2 Nghị quyết 41/2017/QH14, điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015, cho bị cáo được hưởng mức thấp nhất của khung hình phạt. Miễn hình phạt tiền cho bị cáo; áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo nhất trí với quan điểm của người bào chữa
Tại lời nói sau cùng bị cáo X rất ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
* Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
* Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
Khoảng 17 giờ 00 phút, ngày 15/7/2017 tại khu vực đường phía sau Siêu thị Điện máy xanh thuộc tổ 9, phường Tân Phong, thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu Vàng Lòng X có hành vi tàng trữ 0,72 gam Heroin với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Lai Châu phát hiện, bắt quả tang, thu giữ toàn bộ số Heroin trên.
Bị cáo Vàng Lòng X là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, nhưng để thỏa mãn nhu cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo Vàng Lòng X cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự. Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
* Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Về nhân thân: Trên cơ sở lời khai của bị cáo X, theo kết luận giám định số 355/PC54 – GĐĐV ngày 25/8/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu về việc giám định các điểm chỉ đường vân in trên danh chỉ bản số 51 đứng tên Vàng Lòng X, tên gọi khác không, do Phòng PC 81B Công an tỉnh Lai Châu lập ngày 18/7/2017 về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, với các điểm chỉ đường vân in trên danh chỉ bản số 81 do Công an thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên lập (ngày 11/7/2013) đứng tên Vàng Lòng X, tên gọi khác: Nguyễn Lâm Vũ, sinh năm 1995, kết luận các điểm chỉ đường vân in trên 02 Danh chỉ bản trên là các điểm chỉ đường vân của cùng một người. Vì vậy, có đủ cơ sở để xác định bị cáo Xá bị TAND thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 83/2013/HSST ngày 26/9/2013 và bị xử phạt 04 tháng tù. Tuy tính đến lần phạm tội này bị cáo Xá đã được xóa án tích, nhưng không lấy đó làm bài học để cải tạo bản thân thành công dân có ích cho xã hội mà còn tiếp tục phạm tội. Vì vậy, có đủ cơ sở để đánh giá bị cáo có nhân thân xấu.
Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa áp dụng cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Do chính sách pháp luật thay đổi: Hình phạt đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 là từ 01 đến 05 năm giảm nhẹ hơn mức hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là từ hai đến bảy năm. Thực hiện các quy định có lợi cho người phạm tội nên cần áp dụng cho bị cáo X quy định tại khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị Quyết 41/2017/QH14 đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có cơ hội cai nghiện, răn đe, giáo dục bị cáo, cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.
* Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 194 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm ruộng, thu nhập không ổn định để đảm bảo cho cuộc sống của bản thân, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
* Về vật chứng của vụ án:
Đối với 0,47 gam Heroin còn lại sau giám định được đựng trong một gói niêm phong bằng phong bì công văn do Công an tỉnh Lai Châu phát hành, là vật cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 1 Điều 41BLHS, điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS.
Đối với 01 chiếc điện thoại Nokia, màu đen, số IMEL: 353300/05/328327/8, bên trong máy có 01 sim, được đựng trong một phong bì Công văn do Công an thành phố Lai Châu phát hành được dán kín các mép, xét trong hồ sơ ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu khác chứng minh bị cáo sử dụng điện thoại để liên hệ trao đổi mua bán trái phép chất ma túy nên trả lại cho bị cáo theo Điều 76 BLTTHS.
* Về án phí: Tuy bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế khó khăn, nhưng tình tiết này đã được Hội đồng xét xử xem xét là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn cũng đã được Hội đồng xét xử xem xét miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền, vì vậy không chấp nhận đề nghị của người bào chữa về việc miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Vì các lẽ trên!
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Vàng Lòng X phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
1. Về hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015, Nghị quyết 41/2017/QH14 xử phạt bị cáo X 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/7/2017.
2. Về vật chứng của vụ án:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41BLHS, điểm a khoản 2 Điều 76 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 một gói niêm phong bằng phong bì công văn do Công an tỉnh Lai Châu phát hành, bên trong có 0,47gam Heroin.
Trả lại cho bị cáo X 01 chiếc điện thoại Nokia, màu đen, số IMEL: 353300/05/328327/8, bên trong máy có 01 sim.
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 09 giờ 00 phút ngày 10/8/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lai Châu với Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Lai Châu).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 của BLTTHS và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 07/2017/HSST ngày 08/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Số hiệu: | 07/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lai Châu - Lai Châu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về