TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 07/2017/DSST NGÀY 15/09/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 15 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Lão tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 17/2017/TLST-DS, ngày 13/6/2017 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 947/2017/QĐST-DS ngày 14/8/2017 giữa:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần V(gọi tắt là V);
Địa chỉ: Số x L, phường L, quận Đ, Hà Nội;
Người đại diện theo ủy quyền bà Trần Thị Thùy L là Luật sư của công ty Luật TNHH L, địa chỉ số: Số xx T, phường Đ, quận H, thành phố Hải Phòng (giấy ủy quyền số 1655/2017/UQ-VPB, ngày 06/6/2017), có mặt tại phiên tòa.
- Bị đơn: Anh Bùi Văn K, sinh năm 1979;
Trú tại: Thôn L, xã M, huyện A, thành phố Hải Phòng, vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 06/6/2017 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện An Lão, người đại diện cho nguyên đơn bà Trần Thị Thùy Liên trình bày:
Ngày 22/5/2014 anh Bùi Văn K và V có thỏa thuận ký kết hợp đồng tín dụng số 20140606-133016-0001, theo đó ngân hàng cho anh Bùi Văn K vay số tiền 31.500.000đ (ba mươi mốt triệu, năm trăm nghìn đồng), thời hạn vay là 24 tháng, lãi suất 2,92%/tháng, mục đích vay tiêu dùng, phương thức trả nợ là trả gốc và lãi hàng tháng. Trong quá trình vay nợ anh Bùi Văn K đã trả được số tiền nợ gốc là 3.778.087, số tiền lãi là 3.509.913đ, từ ngày 19/01/2015 anh K không thanh toán trả nợ cho ngân hàng theo thỏa thuận, phía ngân hàng đã đôn đốc anh K thực hiện nghĩa vụ trả nợ nhiều lần, nhưng anh K không thực hiện. Tính đến ngày xét xử anh Bùi Văn K còn nợ ngân hàng khoản nợ gốc là 27.721.913đ, nợ lãi là 9.224.087đ, tổng khoản nợ Ngân hàng yêu cầu anh Bùi Văn K phải thanh toán trả là 36.946.000đ (ba mươi sáu triệu, chín trăm bốn mươi sáu nghìn đồng).
Bị đơn anh Bùi Văn K đã được Tòa án nhiều lần triệu tập đến tòa để giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng đều vắng mặt không có lý do, không có ý kiến về việc khởi kiện của ngân hàng.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Lão phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn là V có đơn khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng, anh Bùi Văn K là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa các nguyên đơn đã cơ bản thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, bị đơn anh Bùi Văn K không đến tham gia tố tụng tại Tòa án đã không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của các Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đề nghị buộc anh Bùi Văn K phải trả cho ngân hàng khoản tiền nợ gốc là 27.721.913đ và khoản tiền nợ lãi là 9.224.087đ, tổng số tiền phải thanh toán là 36.946.000đ (ba mươi sáu triệu, chín trăm bốn mươi sáu nghìn đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Qua các tài liệu của vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
1- Về tố tụng:
Về thẩm quyền: Đây là vụ án về việc tranh chấp hợp đồng tín dụng theo quy định tại khoản 3 Điều 26 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng.
Về việc vắng mặt của bị đơn anh Bùi Văn K: Anh Bùi Văn K đã được Tòa án triệu tập đến phiên tòa lần hai, nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Bùi Văn K theo thủ tục chung.
2- Về yêu cầu của nguyên đơn:
Trên cơ sở lời khai của đương sự và chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án thấy rằng:
Tại hợp đồng tín dụng số 20140606-133016-0001 ngày 22/5/2014 giữa V và anh Bùi Văn K, có nội dung anh Bùi Văn K vay của V số tiền 31.500.000đ (ba mươi mốt triệu, năm trăm nghìn đồng) với lãi suất thỏa thuận là 2,92%/tháng, thời hạn vay là 24 tháng. Hợp đồng có chữ ký xác nhận của anh Bùi Văn K (bút lục 55 đến 61). Nên có căn cứ xác định ngày 22/5/2014 anh Bùi Văn K vay của V số tiền 31.500.000đ (ba mươi mốt triệu, năm trăm nghìn đồng). Trong quá trình vay nợ theo sao kê thanh toán (bút lục số 41) cho thấy anh anh Bùi Văn K đã trả được cho ngân hàng khoản tiền nợ gốc là 3.778.087 ( ba triệu bảy trăm bảy mươi tám nghìn không trăm tám mươi bảy đồng), số tiền lãi là 3.509.913đ (ba triệu năm trăm linh chín nghìn chín trăm mười ba đồng), từ ngày 19/01/2015 đến nay anh K không thanh toán trả nợ cho ngân hàng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 474, Bộ luật Dân sự năm 2005, đối với nghĩa vụ trả nợ của bên vay có ghi “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn” Theo lịch trả nợ kèm theo hợp đồng (bút lục 40), ngày 06 hàng tháng là ngày anh K phải trả nợ cho phía ngân hàng, nhưng từ tháng 01/2015 anh K đã không trả nợ cho ngân hàng theo thỏa thuận; phía ngân hàng đã đòi anh K số tiền nợ gốc 27.721.913đ (hai mươi bảy triệu bảy trăm hai mươi mốt nghìn chín trăm mười ba đồng) và lãi phát sinh nhiều lần nhưng anh K không trả nợ. Việc để xảy ra tranh chấp hoàn toàn do lỗi của anh K. Vì vậy yêu cầu trả nợ của V đối với anh K với số tiền gốc còn lại là 27.721.913đ (hai mươi bảy triệu bảy trăm hai mươi mốt nghìn chín trăm mười ba đồng) là có căn cứ , được chấp nhận.
Về lãi suất, theo quy định tại Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng có ghi:
“1. Tổ chức tín dụng có quyền án định và phải niêm yết công khai mức lãi suất huy động vốn, mức phí cung ứng dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.
2. Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận vầ lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật”.
Nên yêu cầu về thanh toán khoản lãi suất chậm trả, theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 20140606-133016-0001 ngày 22/5/2014 giữa V và anh K và khoản tiền lãi phía Ngân hàng yêu cầu đến ngày 16/5/2017 là 9.224.087đ (chín triệu hai trăm hai mươi bốn nghìn không trăm tám mươi bảy đồng), Ngân hàng không yêu cầu anh K phải trả lãi từ ngày 17/5/2017 đến ngày xét xử 15/9/2017, trên cơ sở lãi suất thỏa thuận giữa Ngân hàng và anh K đối với khoản nợ tương ứng, lãi suất này là đúng được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Về án phí:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì bị đơn anh Bùi Văn K phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận, trả lại cho nguyên đơn số tiền đã tạm ứng án phí đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào quy định tại điểm c khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự 2015;
Căn cứ quy định tại các điều 280, khoản 1 Điều 281, 290, 471, 474 Bộ luật Dân sự năm 2005;
Căn cứ quy định tại Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng;
Căn cứ vào quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng Thương mại Cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng: Buộc anh Bùi Văn K phải trả Ngân hàng Thương mại Cổ phần Vsố tiền nợ gốc 27.721.913đ (hai mươi bảy triệu bảy trăm hai mươi mốt nghìn chín trăm mười ba đồng), số tiền lãi phát sinh là 9.224.087đ (chín triệu hai trăm hai mươi bốn nghìn không trăm tám mươi bảy đồng), tổng số tiền anh Bùi Văn K phải trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Vlà 36.946.000đ (ba mươi sáu triệu, chín trăm bốn mươi sáu nghìn đồng).
2- Về án phí:
Anh Bùi Văn K phải nộp 1.847.300đ (một triệu tám trăm bốn mươi bảy nghìn ba trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Trả lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần Vsố tiền tạm ứng án phí đã nộp là 923.000đ (Chín trăm hai mươi ba nghìn đồng) theo Biên lai số 0002552 ngày 12/6/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão.
Về quyền kháng cáo bản án: Đương sự có mặt hoặc có người đại diện hợp pháp có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm người phải thi hành án còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bên vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Về quyền yêu cầu thi hành: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 07/2017/DSST ngày 15/09/2017 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 07/2017/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về