TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 06A/2019/HNGĐ-PT NGÀY 11/03/2019 VỀ THAY ĐỔI MỨC CẤP DƯỠNG NUÔI CON SAU LY HÔN
Ngày 11 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 09/2019/HNGĐ-PT ngày 23/01/2019 về việc “Thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn”. Do bị đơn anh Trần Văn H kháng cáo đối với Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 10/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 05/2019/QĐXX-PT ngày 20/02/2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị L - Sinh năm 1985 (Có mặt) Địa chỉ: Đội A, thôn Q, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Bị đơn: Anh Trần Văn H - Sinh năm 1981 (Có mặt) Địa chỉ: Buôn T, xã B, huyện L, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Đỗ Thị L trình bày:
Chị Đỗ Thị L và anh Trần Văn H kết hôn và có một con chung là cháu Trần Văn H1 - Sinh ngày 14/3/2004. Chị L và anh H ly hôn theo Quyết định Công nhận thuận tình ly hôn số 08/2005/QĐ-CNTTLH ngày 13/6/2005 của Tòa án nhân dân huyện Krông Ana; giao cháu H1 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 200.000đ/tháng, kể từ tháng 6/2005 cho đến khi cháu H1 tròn 18 tuổi.
Sau khi Quyết định có hiệu lực, anh H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng được 15 tháng (từ tháng 6/2005 đến tháng 8/2006), tổng số tiền cấp dưỡng là 3.000.000đ. Sau đó anh H không cấp dưỡng nuôi con nữa.
Nay cháu H1 lớn, chi phí cho sinh hoạt, học tập tăng nên chị L khởi kiện yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000đ/tháng, phương thức cấp dưỡng một lần, tính từ tháng 12/2018 đến tháng 02/2022 là 38 tháng X 1.000.000đ/tháng= 38.000.000đ.
* Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, anh Trần Văn H trình bày:
Những nội dung chị L trình bày là đúng. Sau khi ly hôn anh cấp dưỡng nuôi con được 15 tháng thì anh không tiếp tục cấp dưỡng nữa, vì khi đó điều kiện gia đình khó khăn, thu nhập không ổn định, đi làm thuê để kiếm sống. Hiện tại gia đình anh có 04 nhân khẩu gồm hai vợ chồng à 02 con, gia đình anh thuộc hộ cận nghèo, thu nhập không ổn định, phải đi thuê ruộng để sản xuất và đi làm thuê để kiếm sống nên không đủ khả năng để cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000đ/tháng. Anh đề nghị Tòa án cho anh cấp dưỡng nuôi con hàng tháng với mức là 300.000 đồng.
Tại Bản án sơ thẩm số 10/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Lắk đã căn cứ Điều 58, 81, 82, 83, 107, 110, 116, 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đỗ Thị L về việc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn. Buộc anh Trần Văn H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Trần Văn H1 - Sinh ngày 14/3/2004 theo định kỳ hàng tháng với mức 700.000 đồng/tháng cho đến khi cháu H1 đủ 18 tuổi, thực hiện kể từ ngày 01/12/2018.
Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 03/12/2018, anh Trần Văn H làm đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm cho anh được cấp dưỡng nuôi con với mức 300.000 đồng/tháng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiệnvà bị đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Kháng cáo của bị đơn không có cơ sở xem xét vì mức cấp dưỡng 300.000 đồng/tháng là quá thấp, không đủ để đảm bảo mức sinh hoạt tối thiểu và nhu cầu thiết yếu của cháu H1. Đề nghị hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về nội dung:
Tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 08/2005/QĐ-CNTTLH ngày 13/6/2005 của Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk thể hiện anh H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Trần Văn H1 với mức 200.000 đồng/tháng, khi đó cháu H1 mới hơn một tuổi nên mức cấp dưỡng như trên là phù hợp. Hiện nay, cháu H1 đã trên 14 tuổi, chi phí cho học tập, sinh hoạt cá nhân và nhu cầu thiết yếu thay đổi, Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh H phải cấp dưỡng nuôi con hàng tháng, mức cấp dưỡng 700.000đ/tháng là phù hợp với khoản 2 Điều 82, Điều 83, Điều 116, 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2] Xét kháng cáo của anh Trần Văn H yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được cấp dưỡng nuôi con, mức 300.000 đồng/tháng, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hộ gia đình anh H có 04 nhân khẩu, gồm anh H, chị Lã Thị H2 (vợ anh H), cháu Trần Văn S và cháu Trần Thị Thu H3 (là con chung của anh H và chị H2); là hộ cận nghèo năm 2018, thu nhập khoảng 40 triệu đồng/năm/hộ gia đình/4 người, thu nhập bình quân là 830.000đ/tháng/người. Như vậy, thực tế thu nhập của anh H có đủ khả năng để cấp dưỡng nuôi cháu H1, mức 700.000 đồng/tháng. Do đó, kháng cáo của anh H không có cơ sở chấp nhận.
[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên anh H phải chịu án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 58, 82, 83, 107,110, 116, 117, 119 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn anh Trần Văn H. Giữ nguyên Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 10/2018/HNGĐ-ST ngày 29/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.
Anh Trần Văn H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Trần Văn H1 - Sinh ngày 14/3/2004, theo định kỳ hàng tháng, mức 700.000 đồng/tháng. Thời gian cấp dưỡng tính từ ngày 01/12/2018 cho đến khi cháu H1 đủ 18 tuổi.
[2] Về án phí: Áp dụng Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy đinh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Anh Trần Văn H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm,được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng đã nộp tại Biên lai thu số 1647 ngày 03/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 06A/2019/HNGĐ-PT ngày 11/03/2019 về thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn
Số hiệu: | 06A/2019/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 11/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về