TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TỘI SỬ DỤNG MẠNG MÁY TÍNH, MẠNG VIỄN THÔNG, PHƯƠNG TIỆN ĐIỆN TỬ THỰC HIỆN HÀNH VI CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Trần Văn C, sinh ngày 10/3/1994 tại xã L, huyện N, tỉnh H; Nơi cư trú: Thôn T, xã L, huyện N, tỉnh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị Q; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/11/2020 đến nay; Có mặt
- Bị hại: Chị Đoàn Thị Vân A; Sinh năm 1974; Trú tại: Số nhà 127, đường T, phường Q, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: Buôn bán; Có mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Q; Sinh năm 1965; Trú tại: Xóm T, xã L, huyện N, tỉnh H; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng tháng 09/2020, Trần Văn C nảy sinh ý định sử dụng tài khoản Zalo, Facebook của cá nhân để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Đến ngày 06/10/2020, Trần Văn C sử dụng tài khoản Facebook của mình tên là “Cậu Buồn Vì Ai” xem một số trang của các hội nhóm cho vay tiêu dùng thì thấy ở trang Facebook MB của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội (MB Bank) có chị Đoàn Thị Vân A để lại số điện thoại 0916900974 nhờ tư vấn vay tiền. Sau đó C sử dụng chiếc điện thoại Nokia màu xanh đen có gắn thẻ sim 0859342021 gọi vào số điện thoại của chị A nói dối mình là nhân viên Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội chi nhánh tỉnh Quảng Ninh. Sau khi tạo được sự tin tưởng C yêu cầu chị A kết bạn tài khoản Zalo mang tên “Ngọc Anh” của chị A với tài khoản Zalo mang tên “Vũ Văn Vĩnh” do C lập. Qua trao đổi tư vấn C biết chị A muốn vay số tiền 120.000.000 đồng nên đã yêu cầu chị A đi mở tài khoản ViettelPay và trong tài khoản phải có 20.000.000 đồng. Chị A tin tưởng thực hiện tải ứng dụng dịch vụ ViettelPay về điện thoại rồi đến cửa hàng Viettel đăng ký tài khoản ViettelPay.
Ngày 09/10/2020 chị A nộp số tiền 10.000.000 đồng, ngày 11/10/2020 nộp tiếp số tiền 10.000.000 đồng vào tài khoản ViettelPay mang tên Đoàn Thị Vân A. Sau khi chị A nộp tiền vào tài khoản, C tiếp tục hướng dẫn chị A mở thẻ Mastercard ViettelPay trên điện thoại rồi yêu cầu chị A chụp màn hình điện thoại thông tin thẻ Mastercard cho C. Sau khi nhận được thông tin thẻ Mastercard, Trần Văn C đăng nhập vào ứng dụng Lazada rồi sử dụng thông tin của thẻ Mastercard ViettelPay của chị A đặt mua 02 chiếc điện thoại di động gồm 01 điện thoại Iphone 11 màu xanh trị giá 16.690.000 đồng và 01 điện thoại Iphone 6S màu vàng trị giá 2.750.000 đồng, phí giao hàng là 63.800 đồng. Sau khi đặt mua thành công thì sẽ có một mã OTP gửi đến số điện thoại qua tài khoản của chị A để xác nhận việc mua bán nên C đã nói chị A chụp ảnh màn hình mã OTP này gửi cho C với lý do đó là mã Code gửi để ngân hàng MB Bank kích hoạt hợp đồng vay tiền. Chị A đã chụp và gửi mã OTP qua Zalo cho C và C đã sử dụng mã OTP này để nhập mã thanh toán trên ứng dụng Lazada hoàn tất việc đặt mua 02 chiếc điện thoại trên với tổng số tiền 19.503.800 đồng rồi chặn số điện thoại, tài khoản Zalo của chị A. Đến ngày 14/10/2020 thì hệ thống Lazada chuyển về địa chỉ nhà của C 01 chiếc điện thoại Iphone 11 màu xanh, còn chiếc điện thoại Iphone 6S màu vàng thì hệ thống báo hết hàng nên đã tự động hoàn trả số tiền 2.750.000 đồng vào tài khoản Mastercard của chị A. Sau khi phát hiện bị lừa chị Đoàn Thị Vân A đã rút hết tiền còn lại trong tài khoản Mastercard của mình và đến Công an thành phố Hà Tĩnh trình báo sự việc.
Đến ngày 07/11/2020, Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh tiến hành bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Văn C. Qúa trình điều tra Trần Văn C đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Vật chứng vụ án: : Thu giữ tại Trần Văn C 01 điện thoại di động Iphone 11 màu xanh, số IMEI: 352986115884268; 01 điện thoại di động Iphone X màu đen, số IMEI: 354863092226011 có 01 thẻ sim số 0988428078; 01 điện thoại di động NOKIA 105, số IMEI 1: 353112110029085, số IMEI 2: 353112115029080 có 02 thẻ sim số 0815633790 và 0859342021; 01 Căn cước công dân số 035094002946 mang tên Trần Văn C cấp ngày 25/02/2019. Toàn bộ vật chứng trên được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tĩnh để xử lý theo quy định.
Về dân sự: Trần Văn C đã tác động mẹ là bà Nguyễn Thị Q bồi thường cho chị Đoàn Thị Vân A số tiền 17.000.000 đồng. Nay chị A không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
Bản cáo trạng số 09/CT-VKS-TPHT ngày 18/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh truy tố bị cáo Trần Văn C về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 290 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 290, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Trần Văn C từ 12 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Iphone X màu đen, số IMEI: 354863092226011 có 01 thẻ sim số 0988428078; 01 điện thoại di động NOKIA 105, số IMEI 1: 353112110029085, số IMEI 2: 353112115029080 có 02 thẻ sim số 0815633790 và 0859342021 thu giữ của bị cáo. Căn cứ khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo 01 thẻ Căn cước công dân số 035094002946 mang tên Trần Văn C cấp ngày 25/02/2019; 01 điện thoại di động Iphone 11 màu xanh, số IMEI:352986115884268.
Tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tranh luận gì với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát. Trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin lỗi bị hại, xin lỗi gia đình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, phù hợp vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Ngày 11/10/2020, Trần Văn C sử dụng tài khoản Facebook, Zalo, điện thoại di động liên hệ lấy thông tin tài khoản thẻ Mastercard ViettelPay của chị Đoàn Thị Vân A rồi sử dụng thông tin tài khoản đó mua 01 điện thoại Iphone 11 màu xanh với giá 16.690.000 đồng và 01 điện thoại Iphone 6S màu vàng với giá 2.750.000 đồng, phí giao hàng là 63.800 đồng trên ứng dụng Lazada để sử dụng, tổng cộng là 19.503.800 đồng. Đối với chiếc điện thoại Iphone 6S màu vàng do hệ thống hết hàng nên tài khoản của chị A được hoàn trả số tiền 2.750.000 đồng. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 290 Bộ luật Hình sự.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, đồng thời xâm phạm quy định của Nhà nước về đảm bảo an toàn mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số của người khác. Về nhân thân, bị cáo có nhân thân tốt. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng và được hưởng tình tiết giảm nhẹ “tự nguyện bồi thường thiệt hại”, “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, “thành khẩn khai báo”, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo quy định tại các điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên không xử phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp.
[5] Xét luận tội của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 điện thoại di động Iphone X màu đen, số IMEI:354863092226011 có 01 thẻ sim số 0988428078; 01 điện thoại di động NOKIA 105, số IMEI 1: 353112110029085, số IMEI 2: 353112115029080 có 02 thẻ sim số 0815633790 và 0859342021 thu giữ của bị cáo là công cụ, phương tiện phạm tội theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước. 01 thẻ Căn cước công dân số 035094002946 mang tên Trần Văn C cấp ngày 25/02/2019 là giấy tờ tuỳ thân của bị cáo; 01 điện thoại di động Iphone 11 màu xanh, số IMEI:352986115884268 bị cáo mua từ số tiền chiếm đoạt của bị hại, tuy nhiên bị cáo đã tác động gia đình bồi thường đầy đủ số tiền chiếm đoạt cho bị hại nên không tịch thu mà trả lại cho bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tác động mẹ là bà Nguyễn Thị Q bồi thường cho chị Đoàn Thị Vân A số tiền 17.000.000 đồng, chị A không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.
[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 290; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn C phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt Trần Văn C 10 (mười) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 07/11/2020.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Iphone X màu đen, số IMEI: 354863092226011 có 01 thẻ sim số 0988428078; 01 điện thoại di động NOKIA 105, số IMEI 1: 353112110029085, số IMEI 2: 353112115029080 có 02 thẻ sim số 0815633790 và 0859342021 thu giữ của bị cáo.
Căn cứ khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo 01 thẻ Căn cước công dân số 035094002946 mang tên Trần Văn C cấp ngày 25/02/2019; 01 điện thoại di động Iphone 11 màu xanh, số IMEI: 352986115884268.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc Trần Văn C phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 06/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 về tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 06/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về