TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN
Ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tây Ninh tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 176/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Thanh L, giới tính: Nam, sinh ngày 21 tháng 5 năm 2000, tại: tỉnh Tây Ninh. Nơi ĐKNKTT và nơi cư trú hiện nay: Ấp X, xã Y, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ học vấn: 10/12. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Con ông Trần Ngọc T, sinh năm 1979 và bà Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1981; nơi cư trú: Ấp X, xã Y, huyện T, tỉnh Tây Ninh. Có vợ tên: Nguyễn Thị Kim K, sinh năm 2000; nơi cư trú: Ấp X, xã Y, huyện T, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Nội trợ; con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không có.
Bị cáo đang bị tạm giam từ ngày 24/9/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh về hành vi phạm tội khác.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Qua quá trình điều tra xác định: Vào khoảng đầu tháng 9 năm 2019 trên đường đi từ thành phố Hồ Chí Minh về Tây Ninh thì Trần Thanh L ghé vào uống nước tại quán giải khát không tên nằm trên đường Quốc lộ 22 gần Trung tâm huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây L thấy một người đàn ông tên Dương (không rõ họ tên và địa chỉ) đang nhận làm hồ sơ giấy phép lái xe cho khách hàng. Do chưa có giấy phép lái xe và sợ thi trượt nên L đến hỏi Dương việc làm giấy phép lái xe hạng B2 giả, D trả lời có làm và giá 6.000.000 đồng, L đưa trước cho D 4.000.000 đồng cùng chứng minh nhân dân bản phô tô, ảnh 3x4, số tiền 2.000.000 đồng còn lại L tiếp tục trả khi nào nhận giấy phép lái xe giả; L còn cung cấp thông tin địa chỉ nhà của mình cho D. Khoảng một tuần sau D gửi cho L qua đường bưu phẩm một giấy phép lái xe hạng B2 giả số 720192068514 ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh Tây Ninh cấp ngày 30/9/2019 cho Trần Thanh L, sinh ngày 21/5/2000 ngụ xã Tân Hưng, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; L nhận giấy phép lái xe, trả tiếp 2.000.000 đồng còn lại và nhờ người giao hàng chuyển lại cho D. Sau khi có được giấy phép lái xe giả L xuất trình khi bị cơ quan chức năng kiểm tra.
Vào lúc 10 giờ 55 phút ngày 23/6/2020, Trần Thanh L điều khiển xe ô tô biển số 70A-231.69 do bị cáo L thuê của Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1988; địa chỉ: khu phố 3, thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xảy ra va chạm với xe mô tô biển số 70K3-0268 do Phạm Hoàng L, sinh năm 1997, địa chỉ: khu phố Hiệp Bình, phường Hiệp Ninh, thành phố Tây Ninh điều khiển; sau khi xãy ra tai nạn bị cáo rời khỏi hiện trường. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo bị Đội Cảnh sát giao thông Công an thành phố Tây Ninh mời về trụ sở làm việc, tại đây bị cáo xuất trình giấy phép lái xe và nghi ngờ giấy phép lái xe của bị cáo sử dụng là giả nên đã tiến hành trưng cầu giám định.
Kết luận giám định số 979/KL-KTHS ngày 03/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh, kết luận: “Giấy phép lái xe số: 720192068514; Họ tên: TRẦN THANH L, ngày sinh: 21/05/2000; Nơi cư trú: X. Tân Hưng, H. Tân Châu, T. Tây Ninh, ngày 30 tháng 9 năm 2019” cần giám định là Giấy phép lái xe giả được in bằng phương pháp in phun màu.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và vật chứng bị thu giữ đúng nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát thành phố Tây Ninh đã truy tố;
Tại cáo trạng số 177/CT-VKS ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh đã truy tố bị cáo Trần Thanh L về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan” quy định tại khoản 1, Điều 341 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Trần Thanh L phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan”;
Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù;
Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý theo quy định pháp luật;
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát;
Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của các bị cáo là vi phạm pháp luật; bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời trình bày của bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố thành phố Tây Ninh; Điều tra viên; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tây Ninh. Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Vào khoảng tháng 9 năm 2019, bị cáo Trần Thanh L gặp người tên D (không rõ họ tên, địa chỉ) tại quán giải khát không tên trên đường Quốc lộ 22 gần Trung tâm huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh để D làm cho bị cáo L một giấy phép lái xe giả hạng B2 để sử dụng với giá 6.000.000 đồng. Đến ngày 23/6/2020 khi bị cơ quan chức năng kiểm tra bị cáo L xuất trình thì bị phát hiện bị cáo L sử dụng giấy phép lái xe giả. Hành vi phạm tội của bị cáo đúng với nội dung cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính của Nhà nước về tài liệu hoặc giấy tờ khác.
[4] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Thanh L phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự;
[5] Khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
[5.1.] Tình tiết tăng nặng: Không có;
[5.2.] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.
[6] Hội đồng xét xử xem xét hành vi, tính chất, mức độ thực hiện tội phạm của bị cáo khi quyết định hình phạt và cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người tốt và góp phần phòng chống tội phạm.
[7] Xử lý vật chứng: Tịch thu lưu giữ hồ sơ một giấy phép lái xe giả hạng B2, số 720192068514 ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh Tây Ninh cấp ngày 30/9/2019 cho Trần Thanh L, sinh ngày 21/5/2000 ngụ xã Tân Hưng, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
[8] Xét đề nghị của Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt là phù hợp tính chất, mức độ thực hiện tội phạm của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo L phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh L phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan”. Xử phạt bị cáo Trần Thanh L 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
2. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu lưu giữ hồ sơ vụ án một giấy phép lái xe giả hạng B2, số 720192068514 ghi do Sở giao thông vận tải tỉnh Tây Ninh cấp ngày 30/9/2019 cho Trần Thanh L, sinh ngày 21/5/2000 ngụ xã Tân Hưng, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh.
3. Về án phí hình sự sơ thẩm:
Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Bị cáo Trần Thanh L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng);
4. Quyền kháng cáo: Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tiếp theo ngày tuyên án.
5. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 06/2021/HS-ST ngày 07/01/2021 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan
Số hiệu: | 06/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về