TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 05/ 01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 419/2020/TLST- HS ngày 01 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 449/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: T; Sinh ngày: 19/02/1996 tại: Tỉnh Đắk Lắk; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã P2, huyện V, thành phố Đà Nẵng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn:6/12; Con ông: D, sinh năm 1964; và con bà: H, sinh năm: 1968, hiện đều trú tại:Thôn P, xã P2, huyện V, thành phố Đà Nẵng;
Bị cáo chưa có vợ con.
Tiền sự: Không; Tiền án: 02 tiền án.
- Tại Bản án số: 177/2017/HSST, ngày 28/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 25/8/2018 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.
- Tại Bản án số: 04/2019/HS-ST, ngày 28/01/2019 của Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 18/01/2020 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.
Nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 1049/QĐ- XPVPHC, ngày 25/6/2017, T bị Công an Tp. Buôn Ma Thuột xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức “Cảnh cáo” về hành vi: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/10/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Anh H – Sinh năm 1999 (có mặt) Trú tại: Số 78 L, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh B – Sinh năm 1973 (vắng mặt) Trú tại: Tổ dân phố X, thị trấn A, huyện S, tỉnh Đắk Nông.
2. Anh D – Sinh năm 2001 (vắng mặt) Trú tại: Thôn C, xã D, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ ngày 06/10/2020, T đến quán internet 2T, địa chỉ: 15J, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk chơi game. Đến khoảng 01 giờ ngày 07/10/2020, T đi ra ngoài mua đồ ăn nên nói với D, là nhân viên quản lý quán internet, mở cửa cho T đi ra ngoài. Khi đi xuống nhà để xe của quán internet, T thấy có 04 chiếc xe mô tô các loại đang dựng tại đây, không có người trông coi nên T đi đến xe mô tô mang biển số 48F1-239.79, nhãn hiệu Piaggo, số loại Liberty, màu trắng (xe của anh H, là người đang chơi game tại quán) đang dựng phía ngoài, gần cửa ra vào. T lén lút trộm chiếc xe mô tô mang biển số 48F1-239.79 của anh H, sau đó dắt xe đến khu vực tiểu hoa viên trên đường Đ, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk rồi dựng xe cạnh ghế đá và ngủ tại đây. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, T dắt xe mô tô trên đến tiệm rửa xe trên đường P, thành phố B để rửa xe với mục đích sau khi rửa xe xong sẽ chụp hình đăng bán xe trên các trang mạng xã hội thì bị Cơ quan điều tra phát hiện, bắt giữ cùng tang vật là chiếc xe mô tô mang biển số 48F1- 239.79, nhãn hiệu Piaggo, số loại Liberty, màu trắng.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 217/KLĐG ngày 13/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piaggo, số loại Liberty, biển số 48F1-239.79, màu sơn trắng, số máy M739M5008706, số khung 3401EV107365, dung tích 125, đã qua sử dụng, trị giá 36.000.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số: 416/CT-VKS-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan Cảnh sát điều tra và nội dung bản cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như nội dung bản cáo trạng, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo T mức án từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù. Các biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe moto nhãn hiệu Piaggo, số loại Liberty, biển số 48F1-239.79, màu sơn trắng, số máy M739M5008706, số khung 3401EV107365, dung tích 125 cho anh B là chủ sở hữu nhận sử dụng. Anh B đã nhận lại tài sản trên và không yêu cầu bị cáo T có trách nhiệm bồi thường gì khác.
Bị cáo T không bào chữa và tham gia tranh luận gì. Bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định pháp luật.
[2] Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, đã có đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Do ý thức coi thường pháp luật, muốn có tiền tiêu xài nên vào khoảng 01 giờ ngày 07/10/2020, tại nhà để xe của quán Internet 2T, địa chỉ: 15 J, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, bị cáo T đã lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piaggo, số loại Liberty, biển số 48F1- 239.79, màu sơn trắng, số máy M739M5008706, số khung 3401EV107365, dung tích 125 của anh H, trị giá: 36.000.000 đồng thì bị phát hiện đúng như nội dung vụ án nêu trên.
Hành vi của bị cáo T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
...
g. Tái phạm nguy hiểm...” [3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của người bị hại, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an của xã hội. Bị cáo là công dân có đầy đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của bản thân trong cuộc sống, bị cáo biết được rằng tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác đều sẽ bị pháp luật trừng trị. Song do tham lam tư lợi, muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Bị cáo có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích đã “tái phạm”, nay lại tiếp tục phạm tội nên bị cáo phạm vào tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Xét tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất mức độ hành vi mà bị cáo đã gây ra và cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới phát huy được tác dụng giáo dục nhằm răn đe và phòng ngừa chung trong đấu tranh chống tội phạm.
[4] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Hội đồng xét xử xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thiệt hại về tài sản không lớn, tài sản đã thu hồi trả lại cho người bị hại. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa.
[5] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piaggo, số loại Liberty, biển số 48F1-239.79, màu sơn trắng, số máy M739M5008706, số khung 3401EV107365, dung tích 125 cho anh B là chủ sở hữu nhận sử dụng. Anh B đã nhận lại tài sản trên và không yêu cầu bị cáo T có trách nhiệm bồi thường gì khác.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt: Bị cáo T 03 (ba) năm tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 07/10/2020.
- Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Piaggo, số loại Liberty, biển số 48F1-239.79, màu sơn trắng, số máy M739M5008706, số khung 3401EV107365, dung tích 125 cho anh B là chủ sở hữu nhận sử dụng. Anh B đã nhận lại tài sản trên và không yêu cầu bị cáo T có trách nhiệm bồi thường gì khác.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.
Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết hợp lệ.
“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự”.
Bản án 06/2021/HS-ST ngày 05/01/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 06/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về