Bản án 06/2021/HS-ST ngày 01/02/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 01/02/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 01 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2020/TLST- HS, ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2021/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021/HSST-QĐ ngày 19 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

H; sinh năm 1999 tại C, Gia Lai. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Làng T, xã Đ, huyện C, tỉnh Gia Lai. Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Jarai; Tôn giáo: Công giáo; Con ông A Y, sinh năm: 1977 và bà P, sinh năm: 1980; Bị cáo có vợ là Y, sinh năm 2000 và có 01 con sinh năm 2019; Tiền án, Tiền sự: Không; nhân thân: Tốt. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt

- Người bào chữa cho bị cáo Hơng: Bà Trương Thị Phụng – Luật sư, thực hiện trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai. Có mặt

- Bị hại: Ông Trương Hồng H (đã chết).

- Người đại diện theo pháp luật của bị hại:

1. Bà Lê Thị H, sinh năm 1922.Địa chỉ: Thôn P, xã N, Tp. N, tỉnh K (Là mẹ đẻ của ông H).

2. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1965. Địa chỉ: Thôn 2, xã H, Tp. K, tỉnh K (Là vợ của ông H).

3. Chị Trương Thị B, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn 2, xã H, Tp. K, tỉnh K (Là con đẻ của ông H).

4. Anh Trương Hồng Q, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn 2, xã H, Tp. K, tỉnh K (Là con đẻ của ông H).

- Người đại diện theo ủy quyền của bà Lê Thị H, chị Trương Thị B, anh Trương Hồng Q : Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1965. Địa chỉ: Thôn 2, xã H, Tp. K, tỉnh K. Vắng mặt

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trương Hồng Q, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn 2, xã H, Tp. K, tỉnh K. Vắng mặt

2. Anh A Y, sinh năm 1977. Địa chỉ: Làng T, xã Đ, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có mặt

3. Ông Huỳnh Tấn T, sinh năm 1969. Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện K, tỉnh K.

Vắng mặt -Người làm chứng:

1. Anh Y, sinh năm 1990. Địa chỉ: Làng T, xã Đ, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có mặt

2. Anh A P, sinh năm 1980. Địa chỉ: Làng T, xã Đ, huyện C, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt mặt mặt mặt

3. Chị Y, sinh năm 2000. Địa chỉ: Làng T, xã Đ, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có mặt

4. Ông HN, sinh năm 1964. Địa chỉ: Làng T, xã Đ, huyện C, tỉnh Gia Lai. Vắng

5. Anh D, sinh năm 1972. Địa chỉ: Làng T, xã Đ, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có mặt

6. Anh Kh, sinh năm 1988. Địa chỉ: Làng T, xã Đ, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có

- Người phiên dịch: Ông Rơ Châm P – Cán bộ hưu trí Thị trấn P, huyện C. Có

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 16 giờ ngày 11/7/2020, sau khi phụ giúp làm nhà cho ông Kh ở cùng làng, H cùng một số thanh niên được ông Kh mời đến nhà ăn uống. Quá trình ở nhà ông Kh, vì bị mệt nên H chỉ uống 2 ly rượu nhỏ. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, H (không có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe mô tô BKS 82L1-002.21 dung tích xi lanh 110 cm3 của gia đình mình đi đến ngã ba xã Đ để mua đồ ăn và đi sửa điện thoại. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, H điều khiển chiếc xe đó lưu thông trên đường quốc lộ 19D, hướng từ ngã ba xã Đ, huyện Chư Păh đi huyện Đăk Đoa để về nhà. Khi đi đến đoạn đường cong cua tại Km 38+150m thuộc địa phận làng T, xã Đ, huyện Chư Păh, lúc này ông Trương Hồng H điều khiển xe mô tô BKS 82B1-091.80 chở con trai là anh Trương Hồng Q ngồi phía sau, lưu thông theo hướng ngược lại có bật đèn chiếu sáng phía trước. Do không làm chủ được tay lái nên H điều khiển xe chạy lấn sang phần đường bên trái so với hướng đang lưu thông, nên đã tông vào xe mô tô do ông H điều khiển. Hậu quả làm ông H chết tại chỗ, H bị thương được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Binh đoàn 15 nên không đo được nồng độ cồn, anh Q chỉ bị thương nhẹ, 02 xe mô tô bị hư hỏng.

Quá trình khám nghiệm hiện trường, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai đã thu giữ chiếc xe mô tô biển kiểm soát 82L1-002.21 và thu giữ chiếc xe mô tô hiệu xe mô tô biển kiểm soát 82B1-091.80. Quá trình điều tra xác định được: Chiếc xe mô tô biển kiểm soát 82L1-002.21 là tài sản hợp pháp của ông AY là bố của H, khi H lấy xe đi thì ông AY không biết, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe này cho ông AY; còn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 82B1- 091.80 là tài sản hợp pháp của ông Trương Hồng H, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả chiếc xe này cho bà Nguyễn Thị H là vợ ông Hạnh. Cả ông AY và bà H không yêu cầu gì đối với hư hỏng của xe đã nhận lại.

Tại bản Kết luận giám định pháp y tử thi số: 569/GĐPY ngày 21/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận nguyên nhân ông Trương Hồng H chết là do: Chấn thương sọ não.

Tại bản Cáo trạng số: 32/CT - VKS ngày 30 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo. Đề nghị HĐXX: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; 65 của Bộ luật hình sự. Tuyên phạt bị cáo H mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm.

Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề hoặc công việc nhất định đối với bị cáo.

Về dân sự: Bị cáo H đã bồi thường xong cho gia đình bị hại, gia đình bị hại không có yêu cầu gì thêm.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Păh đã trả lại cho chủ sở hữu nên không đề cập đến.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, thống nhất bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo H: Thống nhất với vị đại diện Viện kiển sát về tội danh, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như mức hình phạt đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án thấp nhất mà vị đại diện Viện kiểm sát đã đề nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Chư Păh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo H tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 11/7/2020, H (không có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 82L1-002.21 dung tích xi lanh 110 cm3 lưu thông trên quốc lộ 19D thuộc địa phận làng T, xã Đ, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai theo hướng từ ngã ba xã Đ, huyện Chư Păh đi huyện Đăk Đoa, khi đến km 38+150m bị cáo chạy xe lấn sang phần đường bên trái so với hướng lưu thông, nên đã tông vào xe mô tô BKS 82B1-091.80 do ông Trương Hồng H điều khiển lưu thông hướng ngược lại. Hậu quả làm ông H chết. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.

[3] Xét hành của bị cáo đã vi phạm quy định tại khoản 9 Điều 8 và khoản 1 Điều 9 Luật Giao thông đường bộ qua việc bị cáo điều khiển xe mô tô không có giấy phép lái xe theo quy định, khi tham gia giao thông không đi đúng phần đường của mình mà điều khiển xe lấn sang phần đường bên trái so với hướng lưu thông, nên đã tông vào xe mô tô do ông H điều khiển, hậu quả ông H chết. Hành vi của bị cáo đã phạm vào điểm a khoản 2 Điều 260 của Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, gây thiệt hại đến tính mạng của người khác được pháp luật bảo vệ, do đó bị cáo phải chịu sự xử lý của pháp luật tương xứng với tính chất, mức độ của vụ án và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung đối với tội phạm.

Tuy nhiên, xét bị cáo có nhân thân tốt, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại; đại diện gia đình bị hại có đơn bãi nại; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng. Xét tính chất nguy hiểm của hành vi của bị cáo thấy không cần thiết cách ly ra khỏi xã hội mà tạo điều kiện cho bị cáo hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là cấm hành nghề hoặc công việc nhất định đối với bị cáo.

[4] Về dân sự: Bị cáo đã thỏa thuận bồi thường xong cho gia đình bị hại, gia đình bị hại không không có yêu cầu gì thêm, nên không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu, nên không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, ý kiến của người bào chữa về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo H phạm tội "Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điều 38; 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo H 03 (ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo H cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì được thực hiện theo quy định tại Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bán án đã cho hưởng án treo.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Buộc bị cáo H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm.

Đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HS-ST ngày 01/02/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:06/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về