Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 349/2020/TLST-HNGĐ, ngày 01 tháng 12 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXX-ST ngày 06 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đào Thị T, sinh năm 1978; địa chỉ cư trú: Thôn 3, xã K1, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Sĩ H, sinh năm 1979; địa chỉ cư trú: Thôn 3, xã K1, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 18/11/2020 và bản tự khai ngày 07/12/2020 chị T trình bày: Chị tự nguyện chung sống với anh Nguyễn Sĩ H từ năm 1997, nhưng đến ngày 25/12/2002 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K1, huyện K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 16 năm. Tuy nhiên trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2013 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế gia đình, anh H thường xuyên chơi bời cờ bạc, về nhà đánh chửi chị. Mặc dù chị và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo anh H thay đổi cách sống để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Vào thời gian tháng 9/2013 anh H phạm tội “Cố ý gây thương tích” bị xử phạt tù 07 năm, đến tháng 6/2020 chấp hành án xong trở về gia đình sinh sống nhưng tình cảm vợ chồng không cải thiện được, vẫn xảy ra đánh cãi nhau. Anh H đã đuổi chị ra khỏi nhà, nên chị và cháu L phải bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 11/2020 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài; chị xin ly hôn anh H.

Về con chung: Có 02 con là Nguyễn Sĩ P, sinh ngày 25/9/1998 và Nguyễn Thị Huyền L, sinh ngày 07/4/2011. Hiện nay cháu P đã trưởng thành trên 18 tuổi nên không yêu cầu giải quyết, còn cháu L đang do chị T nuôi dưỡng. Chị xin tiếp tục nuôi dưỡng cháu L đến khi đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của cháu. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị T không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng vì chị làm nghề lao động tự do, mỗi tháng thu nhập kinh tế 08 triệu đồng và có nơi ăn ở ổn định, đủ điều kiện để nuôi con chung hơn anh H.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh H trình bày tại bản tự khai ngày 09/12/2020: Thống nhất với chị T về thời gian vợ chồng tự nguyện chung sống, thời gian kết hôn, thời gian vợ chồng chung sống hạnh phúc. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2013 do chị T không quan tâm chia sẻ với anh trong công việc và cuộc sống, có lời nói thiếu tôn trọng anh, do vậy anh có hành vi đánh chửi chị. Vào tháng 9/2013 do anh phạm tội “Cố ý gây thương tích” bị Tòa án huyện K xử phạt 07 năm tù, trong thời gian anh chấp hành án, chị T có 02 lần đến thăm. Đến tháng 6/2020 anh chấp hành án xong trở về gia đình sinh sống nhưng cuộc sống chung của vợ chồng không cải thiện được, anh nóng tính có đánh chửi vợ con. Chị T cùng cháu L bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 11/2020 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay anh H cũng thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn rất trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, anh đồng ý ly hôn chị T.

Về con chung: Có 02 con là Nguyễn Sĩ P, sinh ngày 25/9/1998 và Nguyễn Thị Huyền L, sinh ngày 07/4/2011. Hiện nay cháu P đã trưởng thành trên 18 tuổi nên không yêu cầu giải quyết, còn cháu L đang do cả hai anh chị nuôi dưỡng. Anh xin tiếp tục nuôi dưỡng cháu L đến khi đủ 18 tuổi; trên cơ sở nguyện vọng của cháu. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, anh H không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng vì anh làm nghề lao động tự do, mỗi tháng thu nhập kinh tế 12 triệu đồng và có nơi ăn ở ổn định, đủ điều kiện để nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn, bị đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa XÉT THẤY

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh H tự nguyện chung sống từ năm 1997, nhưng đến ngày 25/12/2002 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K1, K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2013 phát sinh mâu thuẫn đến nay ngày càng trầm trọng, tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 11/2020 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị T và anh H đều xin ly hôn là có cơ sở chấp nhận.

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Đào Thị T được ly hôn anh Nguyễn Sĩ H.

2. Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Sĩ P, sinh ngày 25/9/1998 và Nguyễn Thị Huyền L, sinh ngày 07/4/2011. Hiện nay cháu P đã trưởng thành trên 18 tuổi, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết. Nay tại phiên tòa cả hai anh chị đều thống nhất giao cháu L cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi, phù hợp với nguyện vọng của cháu L là được ở với chị T, cần chấp nhận. Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Nguyễn Thị Huyền L, sinh ngày 07/4/2011 cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

3. Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh H tự nguyện chung sống từ năm 1997, nhưng đến ngày 25/12/2002 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K1, K. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 16 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2013 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế gia đình, vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm nhiều lần khuyên bảo để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị T bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 11/2020 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay anh chị đều thuận tình ly hôn. Xét sự thuận tình ly hôn của đôi bên là tự nguyện, phù hợp với pháp luật được chấp nhận.

[2] Về con chung: Anh chị có 02 con chung là Nguyễn Sĩ P, sinh ngày 25/9/1998 và Nguyễn Thị Huyền L, sinh ngày 07/4/2011. Hiện nay cháu P đã trưởng thành trên 18 tuổi, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết. Nay tại phiên tòa cả hai anh chị đều thống nhất giao cháu L cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi, phù hợp với nguyện vọng của cháu L là ở với chị T, được chấp nhận. Cần giao cháu L cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[3] Về tài sản, công nợ: Đều không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình:

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Đào Thị T được ly hôn anh Nguyễn Sĩ H.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Huyền L, sinh ngày 07/4/2011 cho chị T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: 0009349 ngày 01 tháng 12 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị T đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về