TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM TRỰC, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ H VÀ ANH T
Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 171/2020/TLST-HNGĐ ngày 27/12/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15/12/2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H; Sinh năm: 1986 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Đ, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định.
Bị đơn: Anh Tạ Văn T; Sinh năm: 1988(Vắng mặt) Đạ chỉ: Thôn Đ, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 26/10/2020 được bổ sung tại bản tự khai ngày 27/10/2020, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh Tạ Văn T kết hôn vào năm 2007, quá trình tìm hiểu tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Sau khi cưới vợ chồng chung sống đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp về tính cách, bất đồng về quan điểm sống. Do không chịu được cuộc sống chung vợ chồng như vậy nên chị đi làm và vợ chồng sống ly thân nhiều năm. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T đã thực sự đổ vỡ, không có khả năng hàn gắn đoàn tụ. Vì vậy, chị đề nghị Toà án xem xét giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tạ Văn T.
Về con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung là Tạ Văn T, sinh ngày 25/10/2007. Hiện các con chung đang ở cùng anh Thể. Nay ly hôn, chị đề nghị nhường quyền nuôi con chung cho anh T Về tài sản; công nợ chung: vợ chồng không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn anh Tạ Văn T theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, anh T không đến Tòa án để trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa hôm nay, anh T vắng mặt.
Tại biên bản xác minh với ông Tạ Văn T là bố đẻ của anh T cho biết: Anh Tạ Văn T là con trai của ông. Anh T và chị H kết hôn vào năm 2007 hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã N. Quá trình chung sống do chị H không chung thủy, sinh sống với người khác như vợ chồng nên anh chị hay cãi nhau, hôn nhân không hạnh phúc. Anh chị đã ly thân nhiều năm nay, không ai quan tâm đến ai. Anh chị có 01 con chung là Tạ Văn T, sinh ngày 25/10/2007. Hiện nay cháu đang ở cùng ông bà và bố. Anh chị không có tài sản, công nợ chung hay không ông không nắm được.
Tại biên bản xác minh với UBND xã N, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định: Về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn của chị H và anh T, UBND xã không nắm được do các đương sự nộp đơn tại Tòa án, địa phương không tổ chức hòa giải.
Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Về nội dung vụ án: Áp dụng Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Tạ Văn T. Về con chung: Giao cho anh Tạ Văn T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tạ Văn T, sinh ngày 25/10/2007. Chị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng với mức là 1.750.000 đồng, kể từ tháng 01/2021 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động tự lập. Chị H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền này. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị H có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Tạ Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2]Về việc kết hôn: Chị Nguyễn Thị H và anh Tạ Văn T kết hôn vào năm 2007, đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
Vì vậy, đây là cuộc hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.
[3]Về quan hệ hôn nhân: Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống bình thường đến năm 2009 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp về tính cách, bất đồng về quan điểm sống, vợ chồng sống ly thân nhiều năm nay, không ai quan tâm chăm sóc đến ai. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn; chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn. Xét thấy, trong suốt quá trình ly thân, chị H và anh T không có biện pháp nào hiệu quả để hàn gắn đoàn tụ. Đồng thời quá trình giải quyết tại Tòa án anh T không đến làm việc điều đó chứng tỏ anh không tha thiết với cuộc hôn nhân này. Vì vậy, cuộc hôn nhân giữa chị H và anh T nếu có duy trì thì mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H đối với anh Tạ Văn T.
[4] Về con chung: Vợ chồng 01 con chung là Tạ Văn T, sinh ngày 25/10/2007. Hiện các con chung đang ở cùng anh T. Trên cở sở xem xét yêu cầu của các đương sự cũng như ý kiến của con chung. Hội đồng xét xử thấy: Để đảm bảo sự ổn định và phát triển toàn diện của các con chung nên giao các con chung cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng. Chị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng với mức cấp dưỡng là 1.750.000 đồng, kể từ tháng 01/2021 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động tự lập .
[5] Về tài sản chung, công nợ chung: Chị H xác định vợ chồng không có tài sản, công nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Sau này, nếu anh T có yêu cầu giải quyết về tài sản, công nợ chung thì sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.
[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp án phí ly hôn và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[7] Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H và anh Tạ Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1.Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị H và anh Tạ Văn T.
2. Về con chung: Giao cho anh Tạ Văn T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tạ Văn T, sinh ngày 25/10/2007. Chị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng với mức cấp dưỡng là 1.750.000 đồng, kể từ tháng 01/2021 cho đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động tự lập. Chị Nguyễn Thị H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở quyền này.
3.Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con. Được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà chị đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nam Trực theo biên lai thu số 0000281 ngày 27/10/2020. Chị H còn phải nộp 300.000 đồng.
4.Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị H và anh Tạ Văn T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì các đương sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 18/01/2021 về ly hôn giữa chị H và anh T
Số hiệu: | 06/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/01/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về