Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 06/08/2021 về ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC - TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 06 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 120/2020/TLST- HNGĐ ngày 22/12/2020 về việc “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2021/QĐST - HNGĐ ngày 22/7/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Kim O, sinh năm 1983; địa chỉ: Bon N, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông – có đơn xin xét xử vắng mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Đình T, sinh năm 1982; địa chỉ: Bon N, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông – vắng mặt không có lý do.

Người có quyền lợi liên quan: Cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/08/2008 và cháu Nguyễn Đình H1, sinh ngày 06/7/2011; địa chỉ: Bon N, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông.

Người đại diện theo pháp luật của cháu H và H1:

- Chị Huỳnh Thị Kim O, sinh năm 1983; địa chỉ: Bon N, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông, là mẹ cháu H và H1 - có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Anh Nguyễn Đình T, sinh năm 1982; địa chỉ: Bon N, xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông, là cha cháu H và H1 – vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Huỳnh Thị Kim O trình bày:

Chị O và anh Nguyễn Đình T tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 02/10/2007 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông. Sau khi kết hôn, chị O và anh T sinh sống chung với gia đình chồng và làm nông xã Đ, huyện T; đến cuối năm 2010, chị O và anh T chuyển ra ở riêng.

Từ năm 2015, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, hai vợ chồng bất đồng quan điểm nên hay cãi nhau; anh T thường xuyên nhậu nhẹt không chịu đi làm; ghen tuông vô cớ; có nhiều lần đánh đập chị O; sự việc xảy ra, chị O không có trình báo chính quyền địa phương. Chị O đã sống ly thân với anh T từ năm 2016 đến nay. Hiện nay, chị đã không còn tình cảm với anh T; mục đích hôn nhân không còn đạt được nên chị O làm đơn xin ly hôn với anh T.

Về con chung: quá trình chung sống, chị O và anh T có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/08/2008 và cháu Nguyễn Đình H1, sinh ngày 06/7/2011, nguyện vọng của chị O là được nuôi dưỡng 02 cháu đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh T cấp dưỡng. Hiện nay công việc chính của chị O là chăn nuôi và đi làm thêm ở ngoài, thu nhập khoản 6.000.000 đồng/ tháng.

Đối với tài sản chung và nợ chung thì anh chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Đình T, quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh T đến toà án để giải quyết việc ly hôn với chị O nhưng anh T không đến làm việc. Tòa án đã cùng chính quyền địa phương đến nhà anh T, tuy nhiên anh T từ chối nhận các văn bản tố tụng của Tòa án; Tòa án đã thông báo nội dung và lập Biên bản về việc anh T từ chối nhận văn bản tố tụng theo quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức phát biểu ý kiến:

Toà án nhân dân huyện T thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về người tham gia tố tụng và thu thập chứng cứ: Toà án xác định đúng người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, cấp tống đạt văn bản tố tụng cho những người tham gia tố tụng đúng quy định, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật.

- Tại phiên toà sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã chấp hành đầy đủ đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn từ khi thụ lý vụ án đã được triệu tập nhiều lần nhưng không hợp tác; tại phiên tòa vắng mặt không do đó chưa thực hiện đầy đủ các quy định tại Điều 70; Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án; căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91 và Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; áp dụng khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 57; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Kim O.

Về quan hệ hôn nhân: Chị O được ly hôn với anh Nguyễn Đình T.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/8/2008 và cháu Nguyễn Đình H1, sinh ngày 06/7/2011 cho chị O trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến tuổi trưởng thành.

Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung: do chị O không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Huỳnh Thị Kim O phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001367 ngày 22/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết vào quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Huỳnh Thị Kim O khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Đình T và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung; anh T đăng ký thường trú tại Bon Nrung, xã Đ, huyện T do đó, đây là tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập và tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng anh T từ chối nhận; đã được Tòa án thông báo nội dung các văn bản tố tụng nhưng không hợp tác, không đến Tòa án làm việc; không nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và không có ý kiến đối với nội dung vụ án, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa ngày 22/7/2021 và phiên tòa hôm nay, anh T đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do; nguyên đơn chị O có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự [3]. Về nội dung: Xét yêu cầu ly hôn của chị O với anh T; Hội đồng xét xử nhận thấy: Ngày 02/10/2007, chị Huỳnh Thị Kim O và anh Nguyễn Đình T tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Đăk Nông theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa chị O và anh T là hợp pháp.

Xét tình trạng hôn nhân giữa chị O và anh T: Chị O cho rằng, kể từ khi kết hôn, hai vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn; anh T hay nhậu nhẹt, nhiều lần chửi bới, xúc phạm và có hành vi đánh đập chị. Hiện tại, chị O đã không còn chung sống với anh T từ năm 2016; quá trình giải quyết vụ án, chị O xác định đã không còn tình cảm với anh T, hai bên không còn quan tâm gì đến nhau. Đối với anh T, khi chị O nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, anh T cũng không có động thái nào để hàn gắn tình cảm; quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ, anh T vắng mặt tại phiên hòa giải và phiên tòa là thể hiện thái độ không còn mong muốn đoàn tụ. Qua xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Đ xác định: chị O có làm đơn yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết việc bị anh T đuổi chị và các con ra khỏi nhà. Với thực trạng hôn nhân nói trên cho thấy mâu thuẫn giữa chị O và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn của chị O với anh T là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật.

[4] Về con chung: Chị O yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung chưa thành niên là cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/8/2008 và cháu Nguyễn Đình H1, sinh ngày 06/7/2011. Tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ,chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của con;

…”. Do anh T vắng mặt nên không thỏa thuận được với chị O về người trực tiếp nuôi con chung; hiện tại, cháu H và H1 đang sống chung với chị O; chị O hiện có công việc và thu nhập, để tạo điều kiện thuận lợi, đảm bảo sự phát triển bình thường cho các cháu nên Hội đồng xét xử giao cháu H và H1 cho chị O được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng. Trường hợp, anh T có yêu cầu về con chung sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác. Chị O không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung nên không xem xét. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị O không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Huỳnh Thị Kim O phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001367 ngày 22/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Huỳnh Thị Kim O.

1. Về hôn nhân: Chị Huỳnh Thị Kim O được ly hôn với anh Nguyễn Đình T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/8/2008 và cháu Nguyễn Đình H1, sinh ngày 06/7/2011 cho chị O trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi đủ tuổi thành niên. Anh Nguyễn Đình T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con mà lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Huỳnh Thị Kim O phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số 0001367 ngày 22/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2021/HNGĐ-ST ngày 06/08/2021 về ly hôn, nuôi con

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về