TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH N
BẢN ÁN 06/2020/HSST NGÀY 16/01/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16/01/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện V, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 85/2019/HSST ngày 31/12/2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 01 năm 2020, đối với bị cáo:
* Phạm Quang T (Tên gọi khác không), sinh năm 1991; tại xã T, huyện Q, tỉnh N; trú tại đội 4 T, xã T, huyện Q, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T và bà Nguyễn Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền án; tiền sự: Không;
Nhân thân: Quyết định số 04/QĐ-XPHC ngày 20/11/2015, Công an xã N, TP N, tỉnh N xử phạt vi phạm hành chính phạt tiến 500.000 đồng về hành vi "Sử dụng trái phép chât ma túy".
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13/12/2019, chuyển tạm giam ngày 15/12/2019 tới nay, tại Trại tạm giam Công an tỉnh N. Bị cáo có mặt tại phiên toà.
* Người làm chứng:
Anh Nguyễn Cơ T, sinh năm 1980. vắng mặt tại phiên tòa.
Anh Đỗ Thanh T, sinh năm 1984. vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 13/12/2019, do có nhu cầu sử dụng heroine nên Phạm Quang T đi bộ từ nhà đến đầu cầu Đ, xã Đ, huyện Q, sau đó đón xe ô tô khách (T không nhớ biến kiếm soát và hãng xe) đến khu vực đầu cầu Đ thuộc địa phận xã T, huyện T, tỉnh H, mục đích tìm mua heroine về sử dụng cho bản thân. Đến nơi, T xuống xe và đi bộ vào đường liên thôn bên phải đường (hướng N - H) thuộc địa phận xã T, huyện T, tỉnh H khoảng 100 mét thì gặp một người đàn ông đang đứng ở ven đường. T đi đến nói với người đàn ông: “Anh để cho em hai cái” - ý T hỏi mua 02 gói heroine. T lấy từ túi quần phía sau bên phải ra 400.000 đồng đưa cho người đàn ông. Người này cầm tiền rồi đưa lại cho T 02 gói nhỏ đều gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng. Tuy không mở ra kiếm tra nhưng xác định đó là heroine nên T cầm ở tay phải và đi bộ về phía đầu cầu Đ rồi đón xe khách về nhà. Khi đến khu vực đường 477 thuộc địa phận thôn p, xã G, huyện V thì T xuống xe đi tìm mua bơm kim tiêm, nước cất đế sử dụng heroine. Khoảng 11 giờ cùng ngày, khi T đang đi bộ trên đường 477 thì gặp Tổ công tác Công an huyện V phối hợp với Công an xã G đang làm nhiệm vụ yêu cầu kiểm tra. T đã tự giác giao nộp 02 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng, bên trong đều chứa chất bột dạng cục màu trắng mà T đang cầm trên tay phải cho Tổ công tác; đồng thời khai nhận đó là 02 gói heroine T vừa đi mua, cất giấu đế sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản, thu giữ, niêm phong 02 gói nhỏ nêu trên vào một phong bì thư dán kín. Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ của T số tiền 15.000 đồng.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành mở niêm phong, lấy mẫu giám định để gửi đi xác định khối lượng và giám định chất ma túy tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N đối với chất bột dạng cục màu trắng bên trong 02 gói nhỏ gói ngoài bằng giấy bạc màu vàng thu giữ của Phạm Quang T, ký hiệu M1, M2.
Tại bản Kết luận giám định số 343/KLGĐ-PC09-MT của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N ngày 14/12/2019, kết luận:
Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1600 gam; M2 có khối lượng 0,1900 gam. Tổng khối lượng chất bột dạng cục màu trắng trong hai mẫu ký hiệu M1, M2 là 0,3500 (không phẩy ba nghìn năm trăm) gam.
Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giảm định ký hiệu M1, M2 đều là ma túy, loại Heroine. Heroine là chất ma túy thuộc bảng danh mục I, số thứ tự 9, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Hoàn lại đối tượng giám định gồm: Chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1105 gam, M2 có khối lượng 0,1222 gam, đều là ma túy, loại Heroine và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong.
Tại bản Cáo trạng số 05/CT-VKS-GV ngày 30/12/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện V đã truy tố Phạm Quang T ra trước Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh N để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Quang T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xác nhận nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh N thực hành quyền công tố tại phiên tòa, phát biểu luận tội đã giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như nội dung bản Cáo trạng. Sau khi phân tích đánh giá tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Quang T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Quang T từ 18 tháng đến 24 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 13/12/2019.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 343/KLGĐ-PC09-MT, bên trong đựng: Chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1105 gam, M2 có khối lượng 0,1222 gam và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. 01 phong bì niêm phong theo quy định pháp luật, bên trong gồm: 02 mảnh giấy bạc màu vàng và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, là vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật chứng không còn giá trị sử dụng.
Trả lại bị cáo Phạm Quang T số tiền 15.000 (Mười lăm nghìn) đồng là số tiền không liên quan đến việc phạm tội, nhưng vẫn tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện V, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa bị cáo Phạm Quang T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiêm sát nhân dân huyện V đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng của vụ án đã được thu hồi, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 13/12/2019, tại khu vực đường 477 thuộc địa phận thôn P, xã G, huyện V, tỉnh N, bị cáo Phạm Quang T đã có hành vi cất giấu trái phép 0,3500 gam Heroine, nhằm mục đích sử dụng cho bản thân.
Bộ luật Hình sự quy định:
Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a, ……….;
b, ………;
c, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
…….
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
[3]. Hành vi của bị cáo Phạm Quang T đã nêu trên là phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh N truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy, tác động rất xấu đến trật tự trị an và an toàn xã hội, là một trong các nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác, gây ảnh hưởng đến sức khỏe, trí tuệ và sự phát triển bình thường của nòi giống, làm khánh kiệt kinh tế của người sử dụng chất ma túy, gây bất bình trong quần chứng nhân dân. Vì vậy, hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm minh để giáo dục cải tạo bị cáo và là bài học răn đe phòng ngừa chung cho xã hội. Mức hình phạt áp dụng được căn cứ vào tính chất tội phạm, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo trong vụ án để quyết định cho phù hợp.
[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Quang T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đưa ra tại phiên tòa, đó là: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khai nhận hành vi phạm tội của mình trước khi bị phát hiện. Đây là các tình tiết được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần được áp dụng đế giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[7]. Về nhân thân: Bị cáo Phạm Quang T từng bị xử phạt vi phạm hành chính, đã chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính trên một năm, nên được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 7 Luật xử lý vi phạm hành chính.
[8]. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, tương xứng với hành vi mà bị cáo đã gây ra, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và nâng cao công tác phòng ngừa chung, để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
[9]. Về hình phạt bổ sung: Xét bản thân bị cáo Phạm Quang T là người sử dụng ma túy, tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng, không mang tính vụ lợi, không có tài sản gì có giá trị, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[10]. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: số ma túy thu giữ của Phạm Quang T là 0,35 gam Heroine. Sau khi lấy mẫu giám định, khối lượng Heroine còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1105 gam, M2 có khối lượng 0,1222 gam và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong, đã được niêm phong trong phong bì ghi số 343/KLGĐ-PC09-MT. 01 phong bì niêm phong theo quy định pháp luật, bên trong gồm: 02 mảnh giấy bạc màu vàng và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, là vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật chứng không còn giá trị sử dụng. Do vậy, cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với số tiền 15.000 đồng, thu giữ của Phạm Quang T là số tiền không liên quan đến việc phạm tội. Do vậy, cần trả lại cho bị cáo T, nhưng vẫn tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án.
[11]. Về nguồn gốc so Heroine, bị cáo Phạm Quang T khai mua của người đàn ông tại đầu câu Đ, thuộc địa phận xã T, huyện T, tỉnh H. Tuy nhiên, T không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V không có căn cứ để xác minh làm rõ.
[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo luật định.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Quang T phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Quang T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bị bắt tạm giữ 13/12/2019.
2. Biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:
Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 343/KLGĐ-PC09-MT, bên trong đựng: Chất bột màu trắng còn lại trong mẫu gửi giám định ký hiệu M1 có khối lượng 0,1105 gam, M2 có khối lượng 0,1222 gam và toàn bộ vỏ, bao gói niêm phong. 01 phong bì niêm phong theo quy định pháp luật, bên trong gồm: 02 mảnh giấy bạc màu vàng và 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, là vật chứng thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật chứng không còn giá trị sử dụng.
Trả lại bị cáo Phạm Quang T số tiền 15.000 (Mười lăm nghìn) đồng là số tiền không liên quan đến việc phạm tội, nhưng vẫn tiếp tục quản lý để đảm bảo thi hành án. (Số tiền trả lại cho bị cáo T gửi tại tài khoản tạm giữ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Viễn. Đặc điểm các vật chứng tịch thu tiêu hủy, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo biên bản bàn giao vật chứng ngày 30/12/2019, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V và Chi cục Thi hành án dân sự huyện V).
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại diều 30 luật thi hành án dân sự”.
3. Về án phí:
Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Phạm Quang T phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 06/2020/HSST ngày 16/01/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 06/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/01/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về