TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 06/2020/HS-ST NGÀY 04/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 07/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2020/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Huy T, tên gọi khác: Không; sinh ngày 15/12/1982; Nơi sinh: TN; Nơi đăng ký HKTT: Xóm VH, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Con ông: Trần Văn T1, đã chết; con bà: Dương Thị T2, đã chết; vợ, con chưa có; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất;
Tiền án: 2 (Tại Bản án số 50/2017/HSST ngày 28/6/2017 bị TAND huyện Đồng Hỷ xét xử 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Tại Bản án số 88/2018/HS-ST ngày 26/11/2018 bị TAND huyện Đồng Hỷ xét xử 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”); tiền sự: 2 (Ngày 25/5/2016 bị Công an huyện Đồng Hỷ xử phạt số tiền 750.000đ về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” ; Ngày 30/6/2017 bị Công an huyện Đồng Hỷ xử phạt số tiền 1.500.000đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”); Nhân thân: Ngày 25/11/2016 bị Uỷ ban nhân dân xã Minh Lập, huyện Đồng Hỷ xử phạt số tiền 1.000.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”;
Ngày 16/5/2017 bị Công an huyện Đồng Hỷ xử phạt Cảnh cáo về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/01/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện ĐH. (Có mặt tại phiên tòa).
Người chứng kiến:
Anh Phạm Văn C, sinh năm 1963 - vắng mặt.
1 Trú tại: Xóm ĐT, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10 giờ ngày 16/01/2020, tổ công tác Công an xã Hóa Thượng làm nhiệm vụ tại khu vực thuộc xóm ĐT, xã HT, huyện ĐH phát hiện một người đàn ông có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy, tổ công tác đã tiếp cận và yêu cầu kiểm tra, người đàn ông tự giác khai nhận tên là Trần Huy T (sinh năm 1982, trú quán xóm VH, xã HT, huyện ĐH). Tiến hành kiểm tra đã phát hiện và thu giữ trong túi áo khoác bên phải T đang mặc 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng ( T khai nhận đó là heroine, T mua về để sử dụng cho bản thân). Ngoài ra không thu giữ gì thêm. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định và chuyển cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đồng Hỷ giải quyết theo thẩm quyền.
Hồi 15 giờ 25 phút cùng ngày, tiến hành cân xác định khối lượng: Số chất bột màu trắng thu giữ của T là 0,139 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định và niêm phong trong phong bì ký hiệu A1.
Tại bản Kết luận giám định số 445/C09-TT2 ngày 22/01/2020 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy; loại: Heroine; có khối lượng là 0,139 gam.
Quá trình điều tra T khai: Bản thân là đối tượng nghiện ma túy nên khoảng 08 giờ 30 phút ngày 16/01/2020, T đi bộ một mình từ khu vực phía sau tòa nhà A thuộc tổ 17, phường QT, thành phố TN sang khu vực đường tròn CH, thành phố TN để tìm mua Heroine về sử dụng cho bản thân. Tại khu vực đường tròn CH, T gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, T không biết tên, tuổi, địa chỉ và hỏi mua 200.000đ Heroine của người đàn ông này. Người đàn ông đồng ý, nhận tiền của T rồi đưa cho T 01 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng. Mua được Heroine, T cất gói Heroine vào trong túi áo khoác bên phải mình đang mặc rồi đi đến khu vực xóm ĐT, xã HT, huyện ĐH để tìm chỗ sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng như nêu trên.
Vật chứng vụ án gồm: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn, ký hiệu: 445/C09 và LK.
Hiện số vật chứng trên đang được lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số 08/CT-VKSĐH, ngày 09/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Trần Huy T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân của bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Trần Huy T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng:
- Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Huy T tõ 30 đến 36 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
- Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu 445/C09 và LK.
- Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ đồng án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.
Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong phần lời nói sau cùng, bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Vào hồi 10 giờ ngày 16/01/2020, tại khu vực xóm ĐT, xã HT, huyện ĐH, tỉnh Thái Nguyên, tổ công tác Công an huyện Đồng Hỷ đã bắt quả tang Trần Huy T đang có hành vi tàng trữ 0,139 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt quả tang và bị thu giữ vật chứng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lơi khai nhân tôi cua bi cao phu hơp vơi biên bản bắt người phạm tội quả tang, lơi khai cua bi cao tai cơ quan điêu tra, phù hợp vơi lơi khai của người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, bản kêt luân giam đinh và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Xét thấy, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm” ...
c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
[2]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:
Bị cáo có nhân thân xấu, là đối tượng nghiện chất ma túy, có nhiều tiền án, tiền sự, đã từng bị xét xử nhiều lần về tội trộm cắp tài sản và bị xử phạt vi phạm hành chính nhiều lần về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo đã từng phải chấp hành hình phạt tù, đã được giáo dục, cải tạo nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội, điều đó chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật Tại Bản án số 50/2017/HSST ngày 28/6/2017, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ xét xử 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại Bản án số 88/2018/HS-ST ngày 26/11/2018, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ xét xử 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đối với cả hai bản án này, bị cáo chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm, do đó bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Căn cứ nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên, Hội đồng xét xử thấy, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, buộc cách ly bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự, bị cáo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy, bị cáo cất giữ ma tuý với mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời; mặt khác bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[3]. Vật chứng của vụ án: Đối với 02 phong bì niêm phong kí hiệu 445/C09 và LK (bên trong có chứa vỏ bì và số Heroine còn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.
[4] Về án phí, quyền kháng cáo: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Cần tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
[5]. Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.
Trong vụ án này, bị cáo khai đã mua heroine của một người đàn ông lạ mặt, khoảng 40 tuổi, không rõ lai lịch, địa chỉ ở khu vực đường tròn CH, thành phố TN, do không xác định được lai lịch địa chỉ của người đàn ông trên nên cơ quan cảnh sát điều tra không có đủ cơ sở để điều tra, làm rõ.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là phù hợp, có căn cứ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự, Tuyên bố: Bị cáo Trần Huy T phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”. 1. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Trần Huy T 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2020. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
2. Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu 445/C09 và LK.
(Số vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho của Chi cục thi hành án huyện Đồng Hỷ. Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/3/2020 giữa cơ quan Công an huyện Đồng Hỷ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đồng Hỷ).
3. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Trần Huy T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên bản án.
Bản án 06/2020/HS-ST ngày 04/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 06/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về