Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHÁNH VĨNH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 06/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ LY HÔN 

Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 18/2020/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2020/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1975 Địa chỉ: Thôn S, xã K, huyện K, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt.

2. đơn: Ông Nguyễn Phi H, sinh năm 1973 Địa chỉ: Thôn S, xã K, huyện K, tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/5/2020, lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Th H trình bày:

Bà và ông Nguyễn Phi H kết hôn năm 1994, đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện K. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc và có 03 con chung tên Nguyễn Phi C, sinh ngày 16/4/1995, Nguyễn Thị Kiều N, sinh ngày 17/3/1998, Nguyễn Thị Kiều M, sinh ngày 11/4/2005. Từ năm 2005 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, xảy ra tranh cải, do ông H thường xuyên ăn nhậu về nhà đánh đập vợ con, đập phá tài sản trong nhà. Bà đã nhiều lần bỏ qua cho ông H cơ hội thay đổi để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con nhưng ông vẫn chứng nào tật đó, không sửa chữa, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Phi H. Về con chung, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Thị Kiều M đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Đối với hai con chung Nguyễn Phi C, Nguyễn Thị Kiều N đã trưởng thành bà không yêu cầu tòa án giải quyết. Về tài sản chung bà H không yêu cầu tòa án giải quyết. Về nợ chung bà H khai không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

* Đối với bị đơn ông Nguyễn Phi H: Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh đã tiến hành thực hiện các thủ tục triệu tập, xác minh và niêm yết hợp lệ để lấy lời khai theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông H cố tình trốn tránh không đến Tòa án để giải quyết và cũng không có ý kiến bằng văn bản đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H nên Tòa án đưa vụ án ra giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn từ khi thụ lý đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án là đúng theo quy định. Đối với bị đơn ông Nguyễn Phi H đã được Tòa án triệu tập, xác minh, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông cố tình trốn tránh không có mặt tại tòa để làm việc nhằm bảo vệ quyền lợi cho mình do đó tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông H là đúng theo quy định của pháp luật.

Về thu thập tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Tòa án đã thực hiện việc thu thập tài liệu chứng cứ theo quy định.

Về nội dung vụ án: Về hôn nhân, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc ly hôn; Về con chung: Đề nghị HĐXX giao con chung Nguyễn Thị Kiều M, sinh ngày 11/4/2005 cho nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành; Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị H khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét; Về án phí đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn ông Nguyễn Phi H đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt; Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết tại địa phương và nơi cư trú, do đó Tòa án nhân dân huyện Khánh Vĩnh tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng với qui định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Phi H tự nguyện kết hôn năm 1994, đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện K và đã được Ủy ban nhân dân xã cấp giấy chứng nhận kết hôn số 151 ngày 06/9/1994. Do đó, quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông H là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, giữa bà H và ông H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bất đồng quan điểm dẫn đến tranh cải. Ông H thường xuyên nhậu say về nhà đánh đập vợ con và đập phá đồ đạc trong gia đình, bà H đã nhiều lần bỏ qua để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con nhưng ông vẫn không thay đổi tính cách nên mâu thuẫn giữa hai vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Theo kết quả xác minh tại địa phương ông bà đang sinh sống cho thấy cuộc sống giữa hai ông bà thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, bạo lực gia đình, địa phương đã can thiệp hòa giải nhưng tình hình không cải thiện được. Hội đồng xét xử xét thấy, xuất phát từ những bất đồng quan điểm trong cuộc sống dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng làm rạn nứt tình cảm, việc quan tâm, chăm sóc lẫn nhau không còn và đã đến mức trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài. Vì vậy, có duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai và mục đích của hôn nhân cũng không đạt được. Do đó, căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H đối với ông Nguyễn Phi H.

[3] Về con chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Phi H có 03 con chung tên Nguyễn Phi C, sinh ngày 16/4/1995, Nguyễn Thị Kiều N, sinh ngày 17/3/1998, Nguyễn Thị Kiều M, sinh ngày 11/4/2005. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Nguyễn Thị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Kiều M đến tuổi trưởng thành. Bà H không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Đối với hai con chung Nguyễn Phi C, Nguyễn Thị Kiều N đã trưởng thành bà không yêu cầu giải quyết. Kể từ thời điểm bà H và ông H không còn sống chung, cháu M đang do bà Hạnh trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, sau khi ly hôn việc giao con chưa thành niên cho người nào nuôi dưỡng, giáo dục là nhằm mục đích giúp con chưa thành niên phát triển tốt cả về tinh thần lẫn thể chất. Nguyên đơn có đủ điều kiện nuôi con và thực tế đang trực tiếp nuôi con chung, cháu M có nguyện vọng xin được ở với mẹ là bà Nguyễn Thị H. xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung, theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Nguyễn Thị Kiều M, sinh ngày 11/4/2005 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Trong quá trình nuôi con nếu gặp khó khăn bà H có quyền làm đơn yêu cầu cấp dưỡng nuôi con hoặc thay đổi người trực tiếp nuôi con để đảm bảo quyền lợi cho con chung.

[4] Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị H không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

[5] Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị H khai bà và ông Nguyễn Phi H không có nợ chung nên HĐXX không xét.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận cho bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Phi H.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Kiều M, sinh ngày 11/4/2005 cho bà Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Bà Nguyễn Thị H không yêu cầu ông Nguyễn Phi H cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn vì quyền lợi của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con; người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung: Bà Nguyễn Thị H không yêu cầu tòa án giải quyết nên HĐXX không xét.

4. Về nợ chung: Bà Nguyễn Thị H khai bà và ông Nguyễn Phi H không có nợ chung nên HĐXX không xét.

5. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tại biên lai số AA/2016/0004869 ngày 15 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Khánh Vĩnh. Như vậy bà Nguyễn Thị H đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Ông Nguyễn Phi H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về ly hôn

Số hiệu:06/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khánh Vĩnh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về