Bản án 06/2020/DS-ST ngày 01/09/2020 về tranh chấp kiện đòi tài sản là tiền

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 06/2020/DS-ST NGÀY 01/09/2020 VỀ TRANH CHẤP KIỆN ĐÒI TÀI SẢN LÀ TIỀN

Ngày 01/9/2020 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:24/2020/TLST-DS ngày 16 tháng 3 năm 2020 về tranh chấp "kiện đòi tài sản là tiền”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:46/2020/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1987, “có mặt”. Địa chỉ: Thôn 1, xã V, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.

Bị đơn:

- Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1966, “vắng mặt”.

- Ông Hạ Văn Q, sinh năm 1963 (chồng bà B) , “vắng mặt”. Địa chỉ: Thôn 5, xã V, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 03/01/2020, các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa, nguyên đơnanh Nguyễn Văn L trình bày: Do có mối quan hệ quen biết nên từ tháng 3/2016 đến tháng 6/2016 anh có bán thức ăn chăn nuôi (cám lợn) cho vợ chồng bà Nguyễn Thị B và ông Hạ Văn Q ở thôn 5, xã V, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc nhiều lần với tổng số tiền mua là 17.988.000đ. Mỗi lần mua bà B đều ký nhận vào hóa đơn bán hàng; đến ngày 07/8/2016 bà B trả cho anh 5.000.000đ. Tháng 4/2017 bà B có viết giấy nhận nợ với số tiền là 13.000.000đ, thỏa thuận về mức lãi suất là 1%/tháng. Sau khi viết giấy nhận nợ xong, bà B trả cho anh 2 lần, lần 1 trả 3.000.000đ, lần 2 trả 2.000.000đ và trả vào tiền gốc. Do vậy, anh đề nghị bà B, ông Q phải thanh toán cho anh số tiền gốc là 8.000.000đ và lãi 2.800.000đ, tổng số tiền là 10.800.000đ. Nếu trường hợp bà B thanh toán ngay cho anh số tiền nợ gốc là 8.000.000đ, thì anh sẽ không yêu cầu bà B phải trả tiền lãi cho anh nữa.Quá trình giải quyết vụ án anh L đề nghị vợ chồng bà B ông Quân trả cho anh số tiền gốc 8.000.000đ, khôngyêu cầu tính lãi.

Bị đơn bà Nguyễn Thị B và ông Hạ Văn Q vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên tại biên bản lấy lời khai ngày 24/8/2020 ông bà trình bày: Ông bà thừa nhận việc có nợ anh L số tiền mua cám là 8.000.000đ, tuy nhiên hiện nay do ông bà chăn nuôi thua lỗ chưa có điều kiện trả nợ ngay cho anh L; ông bà có ý kiến sẽ trả đủ số tiền trên cho anh L trong năm 2021; khoản nợ anh L 8.000.000đ là nợ riêng của ông bà, không liên quan đến con cái.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường trình bày quan điểm như sau:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ thời điểm nhận đơn khởi kiện cho đến khi xét xử, Thẩm phán giải quyết vụ án đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, việc thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, quá trình điều tra, thu thập chứng cứ tuân thủ đúng các quy định của pháp luật. Các buổi hòa giải tiến hành đúng thủ tục. Việc chấp hành thời hạn xét xử đúng quy định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tiến hành các thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục hỏi tại phiên tòa và tranh luận tại phiên tòa theo đúng quy định pháp luật. Đương sự anh L thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bà B, ông Q không chấp hành đúng các quy định. Những yêu cầu, kiến nghị về thủ tục tố tụng: Không có.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 166, 280, 357 và khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc vợ chồng bà B, ông Q phải trả cho anh L số tiền nợ gốc là 8.000.000đồng, đồng thời thời bà B, ông Q còn phải trả lãi suất hậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo quy định của Bộ luật Dân sự, sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp kiện đòi tài sản là tiền giữa anh L với bị đơn bà B, ông Q. Do bị đơn bà B, ông L có hộ khẩu và cư trú tại thôn 5, xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Tường, do vậy theo quy định tại các Điều 26, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

[1.2] Quá trình chuẩn bị xét xử Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bà B và ông Q đều vắng mặt nên thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án chỉ tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Bà B, ông Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 2 lần nhưng đều vắng mặt không có lý do nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt bà B và ông Q theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Do có mối quan hệ quen biết từ tháng 3/2016 đến tháng 6/2016 anh L bán thức ăn chăn nuôi (cám lợn) cho vợ chồng bà Nguyễn Thị B và ông Hạ Văn Q nhiều lần với tổng số tiền mua là 17.988.000đ. Mỗi lần mua bà B đều ký nhận vào hóa đơn bán hàng. Ngày 11/3/2017 hai bên có ký biên bản thỏa thuận xác nhận nợ với số tiền là 13.000.000đ, thỏa thuận về mức lãi suất là 1%/tháng; sau khi viết giấy nhận nợ xong, bà B trả cho anh L 5.000.000đ tiền gốc. Đến nay, anh L đề nghị bà B, ông Q phải thanh toán trả cho anh số tiền gốc là 8.000.000đ và không yêu cầu phải trả tiền lãi. Bị đơn bà Nguyễn Thị B và ông Hạ Văn Q thừa nhận việc có nợ anh L số tiền 8.000.000đ, tuy nhiên hiện nay do ông bà làm ăn, chăn nuôi thua lỗ chưa có điều kiện trả nợ, ông bà sẽ trả đủ trong năm 2021. Khoản nợ 8.000.000đ là nợ riêng của ông bà, không liên quan đến con cái; anh L không đồng ý việc bà B và ông Q trả tiền trong năm 2021, anh yêu cầu ông bà trả nợ ngay. Do đó cần buộc bà B và ông Q phải trả cho anh L số tiền 8.000.000đ.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện được chấp thuận nên anh L không phải chịu án phí và được hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí đã nộp. Bị đơn ông Q, bà B phải chịu 400.000đồng án phí dân sự sơ thẩm (5% x 8.000.000 đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 166, 280, 357 vàkhoản 2 Điều 468của Bộ luật Dân sự; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1.Buộc vợ chồng bà Nguyễn Thị B và ông Hạ Văn Q phải trả toàn bộ số tiền nợ gốc còn lại là 8.000.000đ (Tám triệu đồng) cho anh Nguyễn Văn L.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật anh L có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền trên, hàng tháng bà B, ông Quân còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2.Về án phí:

- Anh Nguyễn Văn L không phải chịu án phí, được hoàn trả lại số tiền 420.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA/2017/0004941 ngày 11/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường.

- Bà Nguyễn Thị B và ông Hạ Văn Q phải chịu 400.000đán phí dân sự sơ thẩm.

Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án; thời hiệu thi hành án đựơc thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1683
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2020/DS-ST ngày 01/09/2020 về tranh chấp kiện đòi tài sản là tiền

Số hiệu:06/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 01/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về