Bản án 06/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PĂH, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 06/2019/HS-ST NGÀY 27/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 27 tháng 3 năm 2019, tại Hội trường nhà Văn Hóa xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai mở phiên toà lưu động công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2019/TLST-HS ngày 01/02/ 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2019/QĐXXST-HS ngày 28/02/2019; Quyết định hoãn phiên tòa số:02/2019/HSST-QĐ ngày 14/03/2019 và quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02a/2019/QĐXXT-QĐ ngày 14/03//2019 đối với bị cáo:

+ Bùi Xuân H, Sinh năm 1997, tại G;

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn 1, xã IN, huyện C, tỉnh G. Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 8/12;

Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không

Con ông: Bùi Phi H, sinh năm 1969 và bà Lương Thị H1, sinh năm 1969;

Bị cáo chưa có vợ; Gia đình bị cáo có 05 anh, chị em, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình.

Tiền án: có 01 tiền án; tại bản án số: 05/2017/HS-ST ngày 11/01/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 06/11/2017 chấp hành xong hình phạt về địa phương sinh sống, bị cáo chưa thi hành xong các khoản tiền về dân sự; tiền sự: Không; 

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/12/2018 đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

+ Người bị hại:

Anh: Tô Văn H2; sinh năm 1996 (Có mặt).

Địa chỉ: thôn 1, xã IN, huyện C, tỉnh G.

+ Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh: Đoàn T, Sinh năm: 1974 (Vắng mặt).

Trú tại: Thôn 2, xã IK, huyện C, tỉnh G (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18h00 ngày 17/12/2018, Bùi Xuân H đi đến quán nét bà N ở thôn1, xã IK, huyện C chơi điện tử, đến khoảng 23 giờ cùng ngày thì ra về. Khi về, H đi bộ trên đường tỉnh lộ 661, khi đi ngang qua gara sửa xe NT tại thôn 1, xã IN, huyện C, H thấy cửa gara mở hé, người ở bên trong đã ngủ, H nảy sinh ý định đi vào gara để trộm cắp tài sản nên đã lén lút đi vào trong gara thì thấy anh Tô Văn H2 (sinh năm 1996, trú tại thôn 1,xã IN, huyện C) đang nằm ngủ, cạnh đó có để 01 chiếc điện thoại di động loại 0PP0 F3 đang xạc pin, H liền đi lại rút dây sạc pin và lấy điện thoại rồi đi về nhà. Đến sáng ngày 18/12/2018, sau khi ngủ dậy, phát hiện điện thoại của mình bị mất, H2 đã làm đơn trình báo cho Cơ quan Công an để điều tra làm rõ và xử lý theo quy định. Do hành vi trộm cắp của H đã bị camera ghi lại, đến ngày 19/12/2018, Bùi Xuân H sợ hành vi của mình bị phát hiện nên đã đến Công an xã IN, huyện C để đầu thú và giao nộp chiếc điện thoại đã trộm cắp được.

Theo kết luận định giá tài sản số: 42/KL-ĐGTS ngày 21/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Chư Păh kết luận chiếc điện thoại nêu trên trị giá 3.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 02/CT-VKS ngày 28 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Bùi Xuân H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 53 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đề nghị xử phạt bị cáo Bùi Xuân H mức án từ:12 đến 15 tháng tù.

Về vật chứng: 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO F3 màu vàng. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Păh đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, nên không đề cập đến.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Tô Văn H2 đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu gì về dân sự, nên không đề cập đến.

Ý kiến của người bị hại Tô Văn H2: Về hành vi phạm tội và diễn biến sự việc đúng như bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo, người bị hại không bổ sung gì thêm chỉ xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về phần dân sự: người bị hại đã được nhận lại tài sản bị mất nên không yêu cầu gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Bùi Xuân H phạm tội như sau:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 17/12/2018, tại gara sửa xe NT, thuộc thôn 1, xã IN, huyện C, tỉnh G, lợi dụng sơ hở quản lý tài sản của chủ sở hữu trong lúc đang ngủ say, nên Bùi Xuân H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO F3 màu vàng của anh Tô Văn H2 ra khỏi sự quản lý hợp pháp của chủ sở hữu. Trị giá chiếc điện thoại mà Bùi Xuân H chiếm đoạt của anh H2 là: 3.000.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh truy tố bị cáo Bùi Xuân H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét nhân thân bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu: Năm 2013 bị cáo bịđưa đi Trường Giáo Dưỡng theo quyết định số: 306/QĐ-UB ngày 01/4/2013 của Chủ tịch UBND huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai về hành vi “Trộm cắp tài sản”, ngày01/4/2015 chấp hành xong về địa phương sinh sống; tại bản án số: 05/2017/HS-ST ngày 11/1/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai xử phạt 15 tháng tù về tội „Trộm cắp tài sản”, ngày 06/11/2017 chấp hành xong hình phạt, chưa thi hành xong các khoản tiền về dân sự và chưa được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đây là bài học để tu dưỡng đạo đức, rèn luyện bản thân, chăm chỉ lao động để có thu nhập chính đáng nuôi sống bản thân, mà với bản chất hám lợi cá nhân, lười lao động muốn có tiền nhanh để tiêu xài mà bị cáo tiếp tục phạm tội. Vì vậy, cần cho bị cáo một mức hình phạt nghiêm khắc cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho gia đình, xã hội và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản trộm cắp có giá trị không lớn, bị cáo đã tự nguyện ra đầu thú và giao nộp chiếc điện thoại trộm cắp cho Công an, bị hại xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Về vật chứng: 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO F3 màu vàng. Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Chư Păh đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp, nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Tô Văn H2 đã nhận lại tài sản bị mất và không có yêu cầu gì về dân sự, nên không đề cập đến phần quyết định của bản án.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an huyện Chư Păh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Păh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[6] Về án phí: Bị cáo Bùi Xuân H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo: Bùi Xuân H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 53 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Bùi Xuân H 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày (19/12/2018).

- Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Buộc bị cáo: Bùi Xuân H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.

- Áp dụng Điều 331 và điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Báo cho bị cáo, người bị hại biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/3/2019) lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để xin xét xử phúc thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân xã, phường nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành ántheo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HS-ST ngày 27/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Păh - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về