Bản án 06/2019/HSST ngày 04/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 06/2019/HSST NGÀY 04/01/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng,  tỉnh  Cao  Bằng  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  hình  sự  thụ  lý  số: 94/2018/HSST ngày 03 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2018/QĐXXST-HS ngày 18/12/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Hải T; tên gọi khác: không; giới tính: nam; sinh ngày: 17/12/1989 tại thành phố C, tỉnh Cao Bằng; HKTT: tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; chỗ ở: tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: tày; tôn giáo: không; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 10/12 phổ thông; con bà Đoàn Thị Đ (mẹ nuôi), sinh năm 1954, HKTT: tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; anh, chị, em ruột: bị cáo là con một trong gia đình; vợ, con: chưa có.

Tiền sự: không;

Tiền án: ngày 26/12/2017 Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao

Bằng xử phạt 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

Nhân thân:

- Ngày 12/9/2011 Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt 24 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Ngày 24/3/2014 Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt 18 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

- Ngày 29/8/2016, Công an phường Ngọc Xuân, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

- Ngày 05/9/2016, Công an phường Ngọc Xuân, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

- Ngày 12/01/2017, Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt 08 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị bắt ngày 19/10/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Đặng Anh T – Chủ doanh nghiệp tư nhân hoa L

Trú tại: tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt tại phiên tòa có lý do.

Người làm chứng: Trương Thị V; trú tại tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08 giờ 15 ngày 19/10/2018, Đoàn Hải T (sinh ngày 17/12/1989, trú tại: tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) đi bộ từ nhà đến khu vực ruộng trồng hoa ly cách nhà T khoảng 100m mục đích để tìm xem có tài sản gì thì trộm cắp. Khi đến nơi, T thấy trên hàng rào ruộng hoa của ông Đặng Anh T (sinh năm 1988, trú tại: tổ N, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) được dựng bằng cọc tre và buộc các ống thép mạ kẽm (loại ống dẫn nước) lên đó để làm hàng rào ngăn. T quan sát xung quanh thấy không có người. T dùng tay tháo dây thép buộc ống thép mạ kẽm trên hàng rào và cầm ống thép mạ kẽm phi 21, dài 7,5m kéo đi qua đường bờ ruộng để mang đi bán. Khi T đi được khoảng 300m thì bị bà Trương Thị V (sinh năm 1977, trú tại: tổ B, phường N, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) là bảo vệ của doanh nghiệp hoa ly phát hiện và bắt giữ. Sau đó đã báo Công an phường Ngọc Xuân đến lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp quả tang. Sau khi nhận được thông tin Công an phường Ngọc Xuân, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã tiếp nhận đối tượng Đoàn Hải T cùng tang vật, tiến hành lập biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, thu giữ 01 thanh sắt ống phi 21, dài 7,5m.

Quá trình điều tra, Đoàn Hải T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình vào ngày 19/10/2018. T đã lấy trộm ống thép mạ kẽm trên tại hàng rào khu vực ruộng trồng hoa ly của doanh nghiệp hoa ly với mục đích mang đi bán lấy tiền mua ma túy về sử dụng.

Ngày 23/10/2018, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng ra yêu cầu định giá tài sản số 169 đối với vật chứng vụ án. Bản kết luận định giá tài sản số 44/KL-TCKH ngày 23/10/2018 của Phòng tài chính- kế hoạch Ủy ban nhân dân thành phố Cao Bằng kết luận giá trị ống thép mạ kẽm, phi 21, dày 2,5mm, dài 7,5m; mua và sử dụng từ năm 2008, hiện sử dụng được là 37.125 đồng (Ba mươi bảy nghìn một trăm hai mươi lăm đồng).

Hành vi của Đoàn Hải T đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng lập hồ sơ đề nghị truy tố trước pháp luật về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại bản Cáo trạng số: 92/CT-VKSTP ngày 29/11/2018 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Đoàn Hải T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, bị cáo Đoàn Hải T thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo nhất trí, không có ý kiến hay khiếu nại với bản kết luận định giá tài sản số 44/KL-TCKH ngày 23/10/2018 của Phòng tài chính - kế hoạch Ủy ban nhân dân thành phố Cao Bằng. Về trách nhiệm bồi thường dân sự, bị cáo không có ý kiến gì.

Lời khai của bị hại Đặng Anh T, chủ doanh nghiệp tư nhân hoa L tại cơ quan điều tra hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa. Tại phiên tòa, bị hại Đặng Anh T vắng mặt. Trong đơn xin xét xử vắng mặt, về trách nhiệm dân sự, bị hại xác nhận đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Về trách nhiệm hình sự, đề nghị Tòa án xét xử theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên bố bị cáo Đoàn Hải T phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo Đoàn Hải T từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Do bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đặt ra vấn đề xem xét về bồi thường. Về án phí, áp dụng nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi phạm tội: tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với nội dung biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, lời khai của bị hại, người làm chứng, bản kết luận định giá tài sản, vật chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định: ngày 19/10/2018, Đoàn Hải T đã có hành vi trộm cắp tài sản là 01 ống thép mạ kẽm, phi 21, dày 2,5mm, dài 7,5m của ông Đặng Anh T, chủ doanh nghiệp hoa L với giá trị tài sản là 37.125 đồng (ba mươi bảy nghìn một trăm hai mươi lăm đồng).

Lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác về tài sản được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Mục đích của bị cáo khi thực hiện hành vi trộm cắp là lấy tài sản mang đi bán có tiền mua ma túy về sử dụng. Trong vụ án này, giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 37.125 đồng (ba mươi bảy nghìn một trăm hai mươi lăm đồng). Mặc dù, giá trị tài sản bị cáo trộm cắp dưới 2.000.000 đồng nhưng bị cáo đã có 01 tiền án (ngày 26/12/2017, Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng,  tỉnh  Cao  Bằng  xử  phạt  09  tháng  tù  về  tội  trộm cắp  tài  sản).  Ngày 25/6/2018 bị cáo chấp hành xong án phạt tù. Đến ngày 19/10/2018 bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Việc bị cáo đã có tiền án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích mà tiếp tục phạm tội là dấu hiệu định tội được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Đoàn Hải T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

a) ...

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) ...”.

[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về nhân thân: bị cáo là người nghiện ma túy và là người có nhân thân xấu. Bị cáo đã 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản (lần lượt vào tháng 8, 9 năm 2016); 01 lần về bị kết án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (tháng 9 năm 2011); 03 lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản (lần lượt vào tháng 3 năm 2014, tháng 01 năm 2017, tháng 12 năm 2017). Bị cáo đã được cải tạo, giáo dục nhiều lần nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: trong vụ án này bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt chính: căn cứ vào nhân thân của bị cáo; tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi bị cáo gây ra và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định mới đủ để cải tạo giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung trong xã hội. Mức đề nghị hình phạt của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đối với bị cáo là hoàn toàn phù hợp, cần được chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Nhưng xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Tài sản bị cáo trộm cắp là 01 ống thép mạ kẽm, phi 21, dày 2,5mm, dài 7,5m đã được thu hồi và trả lại cho bị hại Đặng Anh T theo biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 29/10/2018 tại Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Bị hại Đặng Anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết về bồi thường.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Đoàn Hải T phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: bị cáo Đoàn Hải T 07 (bảy) tháng tù. Thời gian chấp hành án phạt tù được tính kể từ ngày 19/10/2018.

2. Về án phí: áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử buộc bị cáo Đoàn Hải T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

3. Về quyền kháng cáo: áp dụng Điều 331, Điều 332, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại (vắng mặt tại phiên tòa có lý do) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2019/HSST ngày 04/01/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về