Bản án 06/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ LĨNH, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 06/2018/HS-ST NGÀY 29/06/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng, tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2018/TLST- HS ngày 01/6/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2018/QĐXXST-HS ngày 12/6/2018 đối với:

* Bị cáo: Đinh Văn V, tên gọi khác: Không có. Sinh ngày: 05/6/1973 tại huyện

T, Cao Bằng. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ dân phố 2, Thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 07/12 phổ thông; con ông Đinh Văn Đ (Đinh Liên Đ), sinh năm 1936 (đã chết) và bà Bế Thị P, sinh năm 1934; Vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 07/02/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trà Lĩnh (có mặt).

* Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Bà Bế Thị P, sinh năm 1934; trú tại: Tổ dân phố 2, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng. (có mặt).

- Chị Ma Thị T, sinh năm 1978; trú tại: xóm N, xã M, huyện N, Cao Bằng (có mặt)

* Những người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn Q, sinh năm 1982; trú tại: xóm P, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

2. Anh La Văn Q, sinh năm 1993; trú tại: xóm L, xã X, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

3. Anh Vương Anh T, sinh năm 1989; trú tại: Tổ dân phố 2, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

4. Anh Lục Văn K, sinh năm 1976; trú tại: xóm C, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

5. Anh Hoàng Văn L, sinh năm 1982; trú tại: xóm H, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

6. Anh Nông Nội D, sinh năm 1990; trú tại: Bản P, xã C, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

7. Anh Hoàng Văn Q, sinh năm 1986; trú tại: Tổ dân phố 1, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

8. Anh Nông Văn T, sinh năm 1976; trú tại: xóm P, xã Q, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

9. Anh Hoàng Văn N, sinh năm 1988; trú tại: xóm P, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

10. Anh Sầm Văn Đ, sinh năm 1989; trú tại: Bản H, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

11. Anh Nông Văn T, sinh năm 1966; trú tại: Bản K, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau: Hồi 09 giờ 00 phút ngày 07/02/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra (CQCSĐT) Công an huyện Trà Lĩnh tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đinh Văn V, sinh năm 1973, trú tại tổ dân phố 2, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng. Kết quả khám xét, Đinh Văn V tự giao nộp cho CQCSĐT 54 (năm mươi tư) gói nhỏ bằng giấy bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục; phát hiện trong buồng ngủ của V có 04 (bốn) gói nhỏ bằng giấy bên trong chứa chất bột màu trắng. Toàn bộ 58 (năm mươi tám) gói nhỏ chứa chất bột màu trắng dạng vón cục này, V khai mua với một người ở thành phố Cao Bằng. Phát hiện trong buồng ngủ của V có 03 (ba) gói ni lông màu trắng bên trong có chứa chất bột màu trắng, dạng cục và 01 (một) gói ni lông màu trắng bên trong có chứa các hạt màu trắng, dạng tinh thể. V khai bên trong 04 gói ni lông này đều là chất ma túy V mua tại Trung Quốc. Quá trình khám xét còn tạm giữ 5.730 (năm nghìn bảy trăm ba mươi) nhân dân tệ tiền Trung Quốc; 429.150.000đ (bốn trăm hai mươi chín triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam; 13 (mười ba) chiếc điện thoại di động đã qua sử dụng; 01 (một) mảnh kim loại màu vàng, một mặt có chữ SJC, RỒNG VÀNG và 01 (một) chiếc nhẫn kim loại màu vàng (hình tròn); 01 (một) dây chuyền bằng kim loại màu trắng và 01 (một) chiếc nhẫn bằng kim loại màu vàng; 01 (một) chiếc kéo có cán màu xanh; 01 (một) hộp dao lam còn mới chưa qua sử dụng; nhiều mảnh giấy nhỏ; 01 (một) chiếc cân tiểu ly điện tử. Cơ quan chức năng đã tiến hành tạm giữ, niêm phong toàn bộ số vật chứng và tạm giữ Đinh Văn V để điều tra.

Ngày 08/02/2018, CQCSĐT Công an huyện Trà Lĩnh phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng vật chứng vụ án, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại, kết quả:

- Trong 58 (năm mươi tám) gói nhỏ bằng giấy, bên trong các gói nhỏ đều có chứa chất bột màu trắng dạng cục, có khối lượng là 2,43g (hai phẩy bốn ba gam). CQCSĐT đã trích lấy mẫu gửi Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng để giám định, mẫu có khối lượng 0,1947g (không phẩy một chín bốn bảy gam), mẫu được niêm phong trong một phong bì thư, mặt trước ghi: “Mẫu số 01, vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018”. Số vật chứng còn lại được cho vào một chiếc phong bì thư niêm phong lại, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng số 01 vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018”; Trong ba gói nilon màu trắng, miệng được buộc bằng dây cao su màu vàng, bên trong các gói nilon đều có chứa chất bột màu trắng dạng cục, có khối lượng tịnh là 21,03g (hai mươi mốt phẩy không ba gam). CQCSĐT đã trích lấy mẫu gửi giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Cao Bằng, mẫu có khối lượng 0,0836g (không phẩy không tám ba sáu gam), mẫu được niêm phong trong một phong bì thư, mặt trước ghi: “Mẫu số 02, vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018”. Số vật chứng còn lại được cho vào một chiếc phong bì thư niêm phong lại, mặt trước phong bì ghi: “Vật chứng số 02 vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018”.

Kết quả giám định: Tại bản kết luận giám định số: 53 ngày 05/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: 02 (hai) mẫu chất bột màu trắng trong 02 (hai) phong bì niêm phong ký hiệu mẫu số 01 và mẫu số 02 gửi giám định đều là ma túy, loại Heroine.

- Trong 01 (một) gói nilon màu trắng, miệng được buộc bằng dây cao su màu vàng, bên trong chứa các hạt màu trắng dạng tinh thể, có khối lượng 1,93 (một phẩy chín ba gam). CQCSĐT đã trích lấy mẫu gửi giám định tại Viện khoa học Hình sự Bộ Công an, mẫu có khối lượng 0,1668g (không phẩy một sáu sáu tám gam), mẫu được niêm phong trong một phong bì thư, mặt trước ghi: “Mẫu số 03 vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy”. Số vật chứng còn lại được cho vào một chiếc phong bì thư niêm phong lại, mặt trước phong bì ghi: “vật chứng số 03 vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018”.

Kết quả giám định: Tại bản kết luận giám định số: 1707/C54 (TT2) ngày 05/4/2018 của Viện khoa học Hình sự, Bộ Công an kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu mẫu số 03 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine.

Tại CQCSĐT, Đinh Văn V chỉ thừa nhận được bán ma túy cho khoảng 03 người là thanh niên tại nhà riêng của V, thời gian bán khoảng 21 giờ đến 22 giờ hằng ngày, mỗi lần bán 01 tép, mỗi tép giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng), những người thanh niên này V đều không biết tên và địa chỉ ở đâu. Tuy nhiên, kết quả điều tra có đủ tài liệu để xác định trong thời gian từ đầu năm 2018 đến ngày bị bắt, Đinh Văn V đã có hành vi bán lẻ trái phép chất ma túy cho những người có tên, địa chỉ sau: Nguyễn Văn Q, sinh năm 1982, trú tại xóm P, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng; La Văn Q, sinh năm 1993, trú tại xom L, xã X, huyện T, Cao Bằng; Vương Anh T, sinh năm 1989, trú tại tổ dân phố 2, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng; Lục Văn K, sinh năm 1976, trú tại xóm C, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng; Hoàng Văn L, sinh năm 1982, trú tại xóm H, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng; Nông Nội D, sinh năm 1990, trú tại Bản P, xã C, huyện T, Cao Bằng; Hoàng Văn Q, sinh năm 1986, trú tại, tổ dân phố 1, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng; Nông Văn T, sinh năm 1976,  trú tại xóm P, xã Q, huyện T, Cao Bằng; Hoàng Văn N, sinh năm 1988, trú tại xóm P, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng; Sầm Văn Đ, sinh năm 1989, trú tại Bản H, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng; Nông Văn T, sinh năm 1966, trú tại Bản K, thị trấn H, huyện T, Cao Bằng. Những người có tên nêu trên đều thừa nhận được mua ma túy (Heroine) với Đinh Văn V tại nhà riêng của V ở Tổ dân phố 2, Thị trấn H, huyện T, Cao Bằng.

CQCSĐT Công an huyện Trà Lĩnh đã tiến hành đối chất giữa bị cáo Đinh Văn V với La Văn Q, Nông Nội D và Hoàng Văn Q. Kết quả đối chất Đinh Văn V không thừa nhận được bán ma túy cho những người này nhưng những người này đều khẳng định được mua ma túy với V nhiều lần, việc giao dịch mua bán ma túy được thực hiện qua cửa sổ tại buồng ngủ của V. Những người này đều khai rõ về đặc điểm cửa sổ tại buồng ngủ của V là cửa gồm 02 lớp, lớp phía ngoài là cửa bằng gỗ sơn màu đỏ, lớp phía trong là cửa bằng nhôm kính. Mỗi lần đến mua với số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng), thời gian mua vào khoảng 19 đến 20 giờ hàng ngày.

Tại bản cáo trạng số: 04/CT-VKSTL ngày 31/5/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Đinh Văn V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn V thừa nhận cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng, tuy nhiên bị cáo chỉ thừa nhận được bán ma túy cho khoảng 03 người chứ không phải 11 người như nội dung cáo trạng truy tố. Bị cáo là người nghiện ma túy, nay đã phụ thuộc vào chất ma túy nên có mua ma túy về để ở nhà mục đích là sử dụng cho bản thân. 58 gói nhỏ chất bột màu trắng dạng vón cục mà Công an thu giữ ngày 07/02/2018 là Heroine bị cáo nhờ một người xe ôm (không biết họ tên, địa chỉ) mua giúp ở thành phố Cao Bằng vào đầu tháng 01/2018 với số tiền 3.200.000đ (ba triệu hai trăm nghìn đồng); còn 03 gói nilon chứa chất bột màu trắng là Heroine và 01 gói nilon chứa hạt tinh thể màu trắng là ma túy đá bị cáo mua trước ngày bị bắt khoảng 03 tháng ở Trung Quốc với số tiền là 1.500NDT (một nghìn năm trăm nhân dân tệ tiền Trung Quốc). Bị cáo nhận thức được hành vi bán ma túy cho những người khác là sai, bị cáo xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Đối với số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) tiền Việt Nam để trong túi nilon đỏ và 02 cây vàng trong buồng ngủ của bị cáo bị thu giữ là tài sản của mẹ bị cáo đưa cho bị cáo cất giữ để chi tiêu chăm sóc cho mẹ. Do vậy, mong Tòa trả lại số tiền trên cho mẹ bị cáo. Còn lại số tiền, tài sản bị Công an thu giữ là của bị cáo do trước đây làm nghề xe ôm tích góp mà có, nên mong Tòa trả lại cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bế Thị P trình bày: Tôi là mẹ của bị cáo V, ngày 07/02/2018 con tôi bị bắt về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Khi tiến hành khám xét tại nhà, Cơ quan chức năng có thu giữ số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) và 02 cây vàng. Đây là số tiền, vàng của  tôi tích góp cả đời mới có nhưng do mấy năm nay tuổi cao, bệnh tật, hay lẫn nên đưa cho V giữ để chi phí chăm sóc cũng như để sau này lo hậu sự cho tôi. Do vậy, mong Tòa tuyên trả lại cho tôi số tài sản trên. Ngoài ra, tôi không có yêu cầu gì thêm.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Ma Thị T trình bày: Tôi là người được anh Đinh Văn V (anh trai bị cáo V) thuê chăm sóc bà Phương mỗi tháng 3.000.000đ, ngày 07/02/2018 khi tiến hành bắt giữ, khám xét nhà ở của anh V, Công an có thu giữ của tôi số tiền 1.500.000đ để ở trong buồng ngủ của anh V (kẹp trong sổ hộ chiếu), mong Tòa tuyên trả lại cho tôi số tài sản trên. Ngoài ra, tôi không có yêu cầu gì thêm.

Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có đầy đủ lời khai của họ (BL 168, 169, BL 172, 173, BL 172, 173...). Tại các bản khai ở CQCSĐT họ đều khai nhận được mua ma túy với Đinh Văn V.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đinh Văn V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị: áp dụng điểm b, c, i khoản 2 Điều 251, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Đinh Văn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị xử phạt bị cáo từ 10 đến 12 năm tù;

Về xử lý vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn V không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên mà chỉ mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an huyện Trà Lĩnh; Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Lĩnh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo, các yếu tố cấu thành tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo chỉ thừa nhận được bán ma túy cho khoảng 03 người là nam thanh niên không biết tên, địa chỉ tại nhà riêng chứ không phải 11 người như nội dung cáo trạng đã truy tố, thời gian bán là khoảng 21 giờ đến 22 giờ hằng ngày, mỗi lần bán 01 tép với giá 100.000đ. Tuy nhiên, kết quả điều tra có đủ tài liệu để xác định trong thời gian từ đầu năm 2018 đến ngày bị bắt, Đinh Văn V đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho những người có tên dưới đây đều có địa chỉ ở huyện T, Cao Bằng: Nguyễn Văn Q, La Văn Q, Vương Anh T, Lục Văn K, Hoàng Văn L, Nông Nội D, Hoàng Văn Q, Nông Văn T, Hoàng Văn N, Sầm Văn Đ, Nông Văn T. Những người có tên nêu trên đều thừa nhận được mua Heroine với Đinh Văn V tại nhà riêng của V ở tổ dân phố 2, thị trấn Hùng Quốc, Trà Lĩnh. Tại các lời khai của những người làm chứng trên ở CQCSĐT đều khẳng định được mua ma túy với Đinh Văn V nhiều lần. Việc mua bán ma túy được thực hiện qua cửa sổ tại buồng ngủ của V, những người làm chứng đều khai rõ về đặc điểm cửa sổ tại buồng ngủ của V là cửa 02 lớp, phía ngoài là cửa bằng gỗ sơn màu đỏ, phía trong là cửa bằng nhôm kính.  Như vậy, có cơ sở kết luận bị cáo Đinh Văn V đã có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy.

Tại bản kết luận giám định số: 53 ngày 05/3/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: "02 (hai) mẫu chất bột màu trắng trong 02 (hai) phong bì niêm phong ký hiệu mẫu số 01 và mẫu số 02 gửi giám định đều là ma túy, loại Heroine".

Trong 01 (một) gói nilon màu trắng bên trong chứa các hạt màu trắng dạng tinh thể, có khối lượng 1,93g (một phẩy chín ba gam). CQCSĐT đã trích lấy mẫu gửi giám định tại Viện khoa học Hình sự Bộ công an, mẫu có khối lượng 0,1668g (không phẩy một sáu sáu tám gam). Tại bản kết luận giám định số: 1707/C54 (TT2) ngày 05/4/2018 của Viện khoa học Hình sự Bộ Công an kết luận: "Mẫu tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu mẫu số 03 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine".

Với các hành vi trên, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Lĩnh đã truy tố bị cáo Đinh Văn V về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c, i khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Đối với 02 người trở lên;

i) Heroine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

* Về nhân thân người phạm tội: Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 28/12/2006 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là thành phố Cao Bằng), tỉnh Cao Bằng xử phạt 24 (Hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nhiều năm, là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của chất ma tuý đối với sức khoẻ con người và cộng đồng xã hội. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý về chất ma túy của Nhà nước, do đó, cần phải áp dụng mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để xử lý nghiêm người phạm tội.

[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bố đẻ của bị cáo được Chủ tịch Hội đồng nhà nước (nay là Chủ tịch nước) tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì (áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự).

[5]. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Văn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xử phạt bị cáo mức án từ 10 đến 12 năm tù là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

[6]. Về hướng xử lý vật chứng của vụ án:

- 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi: "Vật chứng số 01 vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018"; 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi: 

"Vật chứng số 02 vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018"; 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi: "Vật chứng số 03 vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018" (03 (Ba) phong bì thư kể trên mặt sau đều có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và đóng hình con dấu của Công an huyện Trà Lĩnh xét thấy liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu tiêu hủy).

- 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi: "TỔNG CỤC CẢNH SÁT VIỆN KHOA HỌC HÌNH SỰ, Số: 1707/C54(TT2)", mặt sau có chữ ký ghi họ tên Phan Thị Thu Hiền, Long Văn Quang và các hình dấu đỏ của Viện khoa học hình sự - Tổng cục Cảnh sát. (Mẫu vật còn lại sau giám định); 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi: "Kéo, lưỡi lam, giấy cắt nhỏ, cân tiểu li điện tử thu giữ tại nhà Đinh Văn V ngày 07/02/2018"; 01 (Một) hộp giấy, bên ngoài hộp có dòng chữ "Bơm tiêm sử dụng một lần VINAHANKOOK", bên trong hộp có các bơm kim tiêm loại 3 ml/cc chưa qua sử dụng; 01 (Một) hộp bên ngoài hộp có dòng chữ "Dung dịch thuốc tiêm NOVOCAIN 3%", bên trong hộp có các ống thuốc tiêm 2ml chưa qua sử dụng; 01 (Một) hộp giấy, bên ngoài hộp có dòng chữ "Bơm tiêm sử dụng một lần VINAHANKOOK", bên trong hộp có các bơm kim tiêm loại 3 ml/cc đã qua sử dụng (Số vật chứng trên liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu tiêu hủy).

- 04 (bốn) tờ tiền Trung Quốc mệnh giá 100 Nhân dân tệ gồm: 01 (một) tờ mã số hiệu C41R 584799, 01 (một) tờ mã số hiệu M3B9605152 và 02 (hai) tờ có cùng mã số hiệu K36R568907. Tại bản kết luận giám định số 2619/C54-P5 ngày 23/5/2018 của Viện khoa học hình sự kết luận là tiền giả nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 phong bì thư được niêm phong, mặt trước ghi: “Tiền Trung Quốc thu giữ tại nhà Đinh Văn V ngày 07/02/2018, gồm 5.330 (năm nghìn ba trăm ba mươi) nhân dân tệ, tiền có nhiều mệnh giá khác nhau”; 01 phong bì thư được niêm phong, mặt trước ghi: “Tiền mặt phát hiện tại nhà Đinh Văn V ở nhiều vị trí khác nhau, số tiền 43.350.000đ (bốn mươi ba triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng), gồm nhiều mệnh giá khác nhau”; 01 phong bì thư được niêm phong, mặt trước ghi: “Tiền mặt phát hiện tại áo khoác của Đinh Văn V tại buồng ngủ của Đinh Văn V, số tiền 85.800.000đ (tám mươi lăm triệu tám trăm nghìn đồng), gồm nhiều mệnh giá khác nhau”; 01 thùng bằng cát tông niêm phong lại, mặt trước ghi: “Tiền mặt phát hiện treo trên tường trong buồng ngủ của Đinh Văn V, số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng).

- 01 (một) phong bì được niêm phong dấu đỏ của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an và các chữ ký của các bên có liên quan, bên trong gồm có: 01 (một) chiếc vòng  bằng kim loại màu vàng có khối lượng 37,5 gam; 01 (một) miếng kim loại màu vàng mặt có dòng chữ "SJC RỒNG VÀNG 999,9" có khối lượng 37,49 gam; 01 (một) dây chuyền bằng kim loại màu trắng có khối lượng 92,46 gam; 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng mặt có gắn đá có tổng khối lượng 17,85 gam (tính cả đá).

- 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi:"13 (Mười ba) chiếc điện thoại di động phát hiện, thu giữ tại chỗ ở của Đinh Văn V ngày 07 tháng 02 năm 2018", mặt sau có chữ ký của các thành phần tham gia biên bản. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn V khai nhận có liên lạc khi mua bán ma túy do đó cần tịch thu phát mại điện thoại sung quỹ Nhà nước;

Số tiền 129.150.000đ (Một trăm hai mươi chín triệu một trăm năm mươi nghìn đồng), 01 nhẫn vàng, 01 dây chuyền bạc bị cáo khai là tài sản do bị cáo làm nghề xe ôm tích góp được. Tuy nhiên, tại Tòa bị cáo đã thừa nhận mỗi ngày sử dụng hết số tiền từ 1 triệu đến 1,5 triệu đồng  so với mức thu nhập hàng tháng 6 - 7 triệu đồng mà bị cáo có được do hành nghề xe ôm thì việc bị cáo có số tài sản như lời khai của bị cáo là không có căn cứ để chấp nhận.

Đối với số tiền mà bà Bế Thị P khai nhận là tài sản bà tích góp có được đưa cho V giữ hộ là 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng). Hội đồng xét xử xét thấy, bà có 6 người con, bản thân biết rõ V là người nghiện ma túy nhưng lại giao số tiền trên cho V giữ, hơn nữa bà P đã bị tai biến gần 10 năm không thể có số tiền lớn 300.000.000đ để gửi cho bị cáo giữ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận, đây là số tiền do bị cáo mua bán ma túy mà có nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền trên.

Đối với 01 (một) chiếc nhẫn (vòng) bằng kim loại màu vàng có khối lượng 37,5 gam và 01 (một) miếng kim loại màu vàng mặt có dòng chữ "SJC RỒNG VÀNG 999,9" có khối lượng 37,49 gam. Tại CQCSĐT và tại Tòa bà P xác nhận trước đây bà đã làm nhiều nghề để kiếm sống, tiết kiệm lâu dài để mua được 02 cây vàng, tại phiên tòa đã làm rõ được đây là vàng của bà Phương cho V giữ hộ không liên quan đến số vàng và tiền của bị cáo. Bà P yêu cầu được lấy lại 02 cây vàng để sử dụng lo hậu sự tuổi già, xét yêu cầu của bà P được lấy lại 02 cây vàng là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận trả lại cho bà P số vàng trên.

Tại CQCSĐT và tại Tòa, chị Ma Thị T khai nhận khi tiến hành khám xét tại nhà bị cáo V, Công an có thu giữ của chị một số tiền 1.500.000đ tiền Việt Nam, kẹp trong 01 sổ hộ chiếu và một số tờ tiền Singapore, Dubai. Hội đồng xét thấy trong biên bản thu giữ tài sản, đồ vật của cơ quan chức năng không thể hiện có số tiền trên, hơn nữa chị khai nhận giữa chị và bị cáo không có mối quan hệ gì nên việc chị có tiền cất giữ trong phòng ngủ của V là không có căn cứ, yêu cầu trả lại cho chị số tiền trên không có căn cứ để xem xét.

[7]. Về án phí: Bị cáo Đinh Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b, c, i khoản 2 Điều 251, Điều 47, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố:

1. Bị cáo Đinh Văn V phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Đinh Văn V 11 (mười một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 07/02/2018.

3. Về xử lý vật chứng của vụ án:

* Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi: "Vật chứng số 01 vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018"; 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi:

"Vật chứng số 02 vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018"; 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi: "Vật chứng số 03 vụ Đinh Văn V có hành vi mua bán trái phép chất ma túy, bắt ngày 07/02/2018". (03 phong bì thư trên mặt sau đều có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và đóng hình con dấu của Công an huyện Trà Lĩnh).

- 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi: "TỔNG CỤC CẢNH SÁT VIỆN KHOA HỌC HÌNH SỰ, Tổng cục Cảnh sát. (Mẫu vật còn lại sau giám định); 01 (Một) chiếc phong bì thư đã được niêm phong, mặt trước phong bì ghi: "Kéo, lưỡi lam, giấy cắt nhỏ, cân tiểu li điện tử thu giữ tại nhà Đinh Văn V "; 01 (Một) hộp giấy, bên ngoài hộp có dòng chữ "Bơm tiêm sử dụng một lần VINAHANKOOK", bên trong hộp có các bơm kim tiêm loại 3 ml/cc chưa qua sử dụng; 01 (Một) hộp bên ngoài hộp có dòng chữ "Dung dịch thuốc tiêm NOVOCAIN 3%", bên trong hộp có các ống thuốc tiêm 2ml chưa qua sử dụng; 01 (Một) hộp giấy, bên ngoài hộp có dòng chữ "Bơm tiêm sử dụng một lần VINAHANKOOK", bên trong hộp có các bơm kim tiêm loại 3 ml/cc đã qua sử dụng; 04 (bốn) tờ tiền Trung Quốc mệnh giá 100 Nhân dân tệ gồm: 01 (một) tờ mã số hiệu C41R 584799, 01 (một) tờ mã số hiệu M3B9605152 và 02 (hai) tờ có cùng mã số hiệu K36R568907. (Số vật chứng trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục THADS huyện Trà Lĩnh. 04 (bốn) tờ tiền giả Trung Quốc mệnh giá 100 Nhân dân tệ đang được ký gửi tại Kho bạc Nhà nước huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng).

* Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước:

- 13 (Mười ba) chiếc điện thoại di động phát hiện, thu giữ tại chỗ ở của Đinh Văn V ngày 07/02/2018", (Số vật chứng trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục THADS huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng).

- 01 (một) phong bì được niêm phong đóng dấu đỏ của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an và các chữ ký của các bên có liên quan, bên trong gồm có: 01 (một) dây chuyền bằng kim loại màu trắng có khối lượng 92,46 gam; 01 (một) nhẫn bằng kim loại màu vàng mặt có gắn đá có tổng khối lượng 17,85 gam (tính cả đá). Số vàng, bạc trên hiện đang được ký gửi tại Kho bạc Nhà nước huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng).

* Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 5.330 (năm nghìn ba trăm ba mươi) nhân dân tệ, tiền có nhiều mệnh giá khác nhau”; số tiền 43.350.000đ (bốn mươi ba triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng), gồm nhiều mệnh giá khác nhau”; số tiền 85.800.000đ (tám mươi lăm triệu tám trăm nghìn đồng), gồm nhiều mệnh giá khác nhau”; số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng)”.  Tổng số tiền VNĐ là  429.150.000đ (Bốn trăm hai mươi chín triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).

* Trả lại cho bà Bế Thị P 01 (một) chiếc nhẫn vòng bằng kim loại màu vàng có khối lượng 37,5 gam; 01 (một) miếng kim loại màu vàng mặt có dòng chữ "SJC RỒNG VÀNG 999,9" có khối lượng 37,49 gam.  (02 cây vàng).

(Toàn bộ số tiền, vàng trên hiện đang được ký gửi tại Kho bạc Nhà nước huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng).

4.  Về án phí: Bị cáo Đinh Văn V phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, bị cáo và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:06/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Lĩnh (cũ) - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về