TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 06/2018/HS-ST NGÀY 20/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 4 năm 2017, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Hội An xét xử sơ thẩm lưu động công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2018/HS-ST ngày 23 tháng 02 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2018/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 3 năm 2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị T, sinh năm 1990. Tại huyện C, tỉnh An Giang.
ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Ấp t, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang.
Nghề nghiệp: Làm thuê; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Đạo phật; trình độ học vấn: 9/12; con ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1958 và bà, sinh năm 1956; chồng Định Quốc T2, sinh năm 1982; con Định Minh P, sinh năm 2012; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt, tạm giam ngày 24/01/2018 đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại:
Phan Hoàng G, sinh năm 1986. (có mặt)
Cư trú: Ấp T, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang.
Lê Thị Như N, sinh năm 1984. (có mặt)
Cư trú: Ấp T, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang.
Người làm chứng:
- Nguyễn Thị G1, sinh năm 1963. (có mặt)
- Phan Văn M, sinh năm 1964. (vắng mặt)
- Phan Thị L, sinh năm 1985. (có mặt)
- Định Quốc T2, sinh năm 1982. (có mặt)
- Phạm Thị N, sinh năm 1956. (vắng mặt)
- Nguyễn Hoàng Anh K, sinh năm 1986. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Nguyễn Thị T bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Thị T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác. Khoảng 09 giờ ngày 08/12/2017, T quan sát thấy nhà của Phan Hoàng G và Lê Thị Như N (vợ của G), cạnh nhà T ở ấp T, thị trấn M, huyện C vắng người và không khóa cửa, T lén đi vào nhà đến phòng ngủ của G và N lấy trộm 01 Laptop hiệu Toshiba có gắn 01 con chuột máy tính hiệu Genius màu đen và 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu trắng hồng. T đem Laptop và điện thoại vừa trộm được đến ấp A, xã H, huyện L, tỉnh Đồng Tháp cất giấu trong nhà củi phía sau nhà của Phạm Thị N (mẹ ruột của T). Sau đó, G phát hiện bị mất trộm tài sản nên G trình báo cơ quan Công an.
Kết luận định giá tài sản số 04 ngày 14/12/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Chợ Mới, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu OPPO, màu trắng hồng (đã qua sử dụng), trị giá 4.000.000 đồng; 01 Laptop hiệu Toshiba và 01 con chuột vi tính hiệu Genius màu đen (đã qua sử dụng), trị giá 6.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản 10.000.000 đồng.
Ngày 22/01/2018 T bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C khởi tố, bắt tạm giam để điều tra.
Người bị hại, người làm chứng cho biết: Tài sản bị mất trộm 01 Laptop và 01 điện thoại hiệu OPPO như nội dung vụ án đã nêu. Cơ quan điều tra đã thu hồi tài sản trả lại cho người bị hại nên người bị hại không yêu cầu gì thêm.
Tại bản cáo trạng số 03/CT.VKS ngày 23 tháng 02 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Kiểm sát viên trình bày lời luận tội: Giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Thị Tuyền về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị T khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, không tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng tại phiên tòa, những người làm chứng vẫn vắng mặt. Tuy nhiên, những người vắng mặt đã có lời khai trong hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt của họ không gây cản trở cho việc xét xử. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.
[2]. Về hành vi phạm tội, tính chất, mức độ nghiêm trọng về hành vi của bị cáo nhận thấy:
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị T khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát vừa công bố. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với lời khai của người bị hại và những người làm chứng; phù hợp với các vật chứng bị thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác được lưu trong hồ sơ vụ án.
Từ những căn cứ trên có cơ sở xác định, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt của bị hại tài sản có giá trị 10.000.000 đồng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi phạm tội của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội và phù hợp với quy định của pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện ngày 08/12/2017 là trước 00 giờ ngày 01/01/2018. Căn cứ vào hướng dẫn của Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20-6-2017 của Quốc Hội và Công văn 04/TANDTC-PC ngày 09/01/2018 của Tòa án nhân dân tối cao về việc áp dụng Bộ luật hình sự 2015 và Nghị quyết số 41 của Quốc hội, Tòa án áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 đe xét xử đối với bị cáo.
Quyền sở hữu là một trong những quyền cơ bản đối với con người. Để sở hữu được tài sản, người lao động phải trải qua quá trình lao động và tích lũy lâu dài mới tạo lập được. Cho nên, quyền sở hữu được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Đồng thời, sẽ áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất, là hình phạt, đối với những người xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, đáp ứng các quy định của pháp luật hình sự.
Bị cáo đang ở độ tuổi lao động, lẽ ra bị cáo phải tích cực lao động để tạo lập tài sản chính đáng cho bản thân và nuôi sống gia đình mình nhưng vì hám lợi, bị cáo đã thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, xâm phạm trật tự quản lý của Nhà nước mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo tỏ rõ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo mới phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; tài sản đã được thu hồi trả lại cho chủ sở hữu. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự nên có xem xét cho bị cáo khi quyết định hình phạt.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4]. Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ đã được Cơ quan điều tra giao trả lại cho bị hại là phù hợp nên không đề cập giải quyết.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nên không xét đến.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 138, Điều 33; điểm g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 24/01/2018.
Căn cứ các Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Buộc bị cáo Nguyễn Thị T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 06/2018/HS-ST ngày 20/04/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 06/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/04/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về