Bản án 06/2018/HS-ST ngày 20/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 06/2018/HS-ST NGÀY 20/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 4 năm 2018, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng, tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:03/2018/HS-ST ngày 05  tháng 4 năm 2018 về tội “Trộm cắp tài sản" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2018/QĐXX-HS, ngày 09 tháng 4 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.

Đối với bị cáo: Lục An N, tên gọi khác: không; sinh ngày 19/5/1989 tại Xã L, Huyện Q, tỉnh Cao Bằng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm N1, xã B, huyện H, tỉnh Cao Bằng; nơi công tác: Trường tiểu học N2, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng; Dân tộc: Nùng; Nghề nghiệp: Giáo viên; Quốc tịch:Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Con ông: Vi Văn N, sinh năm: 1958; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trú tại: Huyện H, tỉnh S; Con bà: Lục Thị M, sinh năm: 1960; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trú tại: Xóm N1, xã B, huyện H, tỉnh Cao Bằng; Anh chị em ruột: Có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Chồng: Chưa có; Con: Bị cáo có 01 con, sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Không có. Hiện nay bị cáo đang được tại ngoại theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 02 ngày 06/02/2018 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)

* Người bị hại: Chị Hoàng Thị L, sinh năm: 1982

NĐKHKTT: Xóm N, xã T, huyện A, tỉnh Cao Bằng. (Có mặt)

Hiện nay đang công tác tại: Trường Tiểu học N, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng.

* Người làm chứng: Anh Hà Văn K, sinh năm: 1980 (Có mặt).

NĐKHKTT: Xóm N, xã T, huyện A, tỉnh Cao Bằng.

* Đại diên lãnh đạo Trường Tiểu học N, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng tham gia phiên tòa Bà: Triệu Thị N, sinh năm 1972; chức vụ: Hiệu trưởng. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào cuối tháng 11 năm 2017, tại Trường Tiểu học N trên địa bàn xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng nhận được hỗ trợ quỹ thiện nguyện An Phú tiến hành xây dựng lớp học mới trên nền nhà cũ trong khuôn viên Nhà trường quản lý. Trong ngày 28/11/2017 Ban giám hiệu Nhà trường cho các cô giáo Hoàng Thị L, Lục An N, Hoàng Thị Q chuyển đồ đạc cá nhân, dọn dẹp sang phòng ở mới để trả mặt bằng cho nhà trường, tiến hành xây dựng lớp học mới; khoảng 17 giờ 30 phút, cùng ngày thì Lục An N và Hoàng Thị Q đã dọn dẹp đồ đạc trong phòng của mình xong, thời gian đó Lục An N có đi chơi xung quanh sân trường, có ghé qua các phòng cũ tại khu tập thể của nhà trường, khoảng thời gian đó cô giáo Hoàng Thị L cùng chồng là Hà Văn K vẫn đang sắp xếp đồ tại phòng ở mới, lợi dụng trời tối Lục An N có đi qua trước cửa phòng ở cũ của cô L, nhân lúc vắng người N thấy trên giá đồ phòng cô L có 01 (Một) điện thoại Samsung Galaxy J7 Pro J730 Blue Pastel màn hình sáng, thấy không có ai trong phòng để trông giữ tài sản nên N đã bước vào phòng nảy sinh ý định lấy trộm điện thoại trên của cô Hoàng Thị L; tính khoảng cách từ phòng cũ và phòng mới chỉ cách nhau khoảng 03m (ba mét). Đến sáng ngày 29/11/2017 khi bị mất tài sản trên, cô Hoàng Thị L đã làm đơn trình báo sự việc đến Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng.

Cơ quan điều tra đã tiến hành điều tra, xác minh làm rõ vụ việc, nhận thấy hành vi phạm tội của mình không thể che giấu được, trong ngày 19/12/2017 Lục An N đã ra tự thú tại Công an huyện Bảo Lâm và giao nộp toàn bộ tài sản trộm cắp được cho cơ quan điều tra.

Tại kết luận giám định số: 345 ngày 29/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung galaxy J7 Pro J730 BluePastel, màu xanh nhạt có số IMEL 1: 356446086978157, số IMEL 2: 356446086978155 đã qua sử dụng có giá là 6.000.000đ (Sáu triệu đồng chẵn).

Tại Cơ quan điều tra Lục An N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 28/11/2017 sau khi đã dọn dẹp xong để chuyển phòng ở tập thể Lục An N có đi xung quanh phòng ở cũ của các giáo viên trong trường, khi đi qua trước cửa phòng của cô Hoàng Thị L. N nhìn vào trong phòng thấy chiếc điện thoại của cô L để trên giá, màn hình đang sáng, sau khi quan sát thấy vợ chồng cô L đang dọn dẹp bên phòng ở mới, còn phòng cũ xung quanh cũng không có ai đi lại. Lúc này N nảy sinh ý định lấy trộm sau đó một mình bước vào phòng cô L lấy trộm chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 Pro J730 Blue Pastel bỏ vào túi áo khoác bên phải rồi đi thẳng về phòng ở mới của mình, sau đó cài đặt điện thoại sang chế độ im lặng và đem cất giấu dưới chăn trên giường ngủ của mình, ngày hôm sau thì N đã tắt nguồn điện thoại, tháo sim vứt đi, đến ngày 03/12/2017 N đem điện thoại trộm được đem thay 01(Một) sim Vieettel số thuê bao 01637359194 lắp vào chiếc điện thoại trộm cắp được để sử dụng, lên mạng và lắp 01(Một) sim Vieettel có số thuê bao 0969763388 để liên lạc với mẹ của N và bạn bè với số thuê bao 01697820629. Trong thời gian sử dụng chiếc điện thoại trên Lục An N đã sử dụng số thuê bao 0969763338 để đăng nhập một số ứng dụng như Zalo, Facebook.

Ngày 05/ 02/2018, tại Cơ quan Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng căn cứ các Điều 36; 39 và Điều 10 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tiến hành xử lý vật chứng vụ án; trả lại 01(Một) điện thoại Samsung Galaxy J7 Pro J730 Blue Pastel và các giấy tờ liên quan cho chủ sở hữu hợp pháp là Hoàng Thị L (NĐKHKTT: XómN, xã T, huyện T, tỉnh Cao  Bằng; Hiện nay đang công tác tại: Trường Tiểu học N, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng).

Bản cáo trạng số: 04/CT-VKSBL, ngày 03/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng đã truy tố Lục An N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lục An N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, r, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Đề nghị xử phạt bị cáo Lục An N từ 06 (Sáu) tháng đến 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 (Mười hai) đến 18 (Mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Cao Bằng quản lý và giáo dục.

- Trách nhiệm dân sự: Tại Quyết định xử lý vật chứng số: 01, ngày 05/02/2018 tại Cơ quan Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng đã tiến hành trả lại các tài sản là vật chứng của vụ án và các giấy tờ liên quan cho chủ sở hữu hợp pháp mang tên Hoàng Thị L, sinh năm 1982. Giáo viên Trường Tiểu học N, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng.

- Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên toà bị cáo Lục An N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã qua thẩm tra tại phiên toà, qua đó đã chứng minh rằng khoảng 17 giờ 30 phút ngày 28/11/2017, tại Trường tiểu học N, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng, khi đi qua trước cửa phòng ở giáo viên của Hoàng Thị L quan sát thấy không người trông coi, Lục An N đã vào phòng lấy trộm 01(Một) điện thoại Samsung Galaxy J7 Pro J730 Blue Paste có giá trị 6.000.000đ (Sáu triệu đồng chẵn) của Hoàng Thị L, mục đích bị cáo lấy trộm chiếc điện thoại trên để sử dụng cá nhân, đến ngày 19/12/2017 thấy không dấu được hành vi trộm cắp của mình Lục An N đã ra tự thú tại Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng và giao nộp tài sản trộm cắp được cho cơ quan điều tra.

Vào ngày 05/12/2017 người bị hại chị Hoàng Thị L đã nhận lại được chiếc điện thoại trên do Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng trả lại, và tại phiên tòa người bị hại cũng không có yêu cầu gì về phân bồi thường đối với bị cáo, do vậyHội đồng xét xử không xem  xét.

Hành vi của bị cáo N đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là phạm pháp, nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý, do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự;

Điều 173 của Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; ....................

Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo tuy thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng động cơ mục đích là vụ lợi cá nhân, chỉ vì lòng tham nên đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác. Hành vi trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương; tuy nhiên, xét thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, chỉ vì suy nghĩ nông cạn nên đã nổi lòng tham, lợi dụng sự sơ hở của người khác đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, mục đích để sử dụng cá nhân, khi đã thực hiện trót lọt hành vi phạm tội, thấy không thể tiếp tục giữ kín được hành vi vi phạm pháp luật, bị cáo đã đến cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm tự nguyện đầu thú và giao nộp lại tài sản trộm cắp được vào ngày 19/12/2017, với nhận định như trên thì bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do vậy trong quá trình nghị án Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội.

[1] Xét nhân thân của các bị cáo: Bị cáo Lục An N từ nhỏ lớn lên được bố mẹ nuôi dưỡng cho đi học, và được tuyển dụng vào ngành giáo dục, trước khi phạm tội bị cáo đang công tác giảng dạy tại Trường Tiểu Học N, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng, trong quá trình công tác bị cáo không vi phạm đạo đức nghề nghiệp, có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[2] Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã phạm tội "Trộm cắp tài sản". Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo kể từ khi phạm tội cho đến nay đã thành khẩn khai báo trước các cơ quan tố tụng, cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo N tự nhận thấy hành vi của mình đã thực hiện là vi phạmpháp luật và trái đạo đức  nghề nghiệp nhà giáo; do vậy, sau khi đã thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã tự nguyện đến Công an huyện Bảo Lâm tự thú và giao nộp toànbộ tài sản trộm cắp được, bị cáo đã tỏ ra ăn năn  hối cải về hành vi vi phạm pháp luật của mình. Hội đồng xét xử tiến hành đánh giá toàn diện, đầy đủ về những vấn đề có lợi cho người phạm tội, theo quy định của Bộ luật hình sự để xem xét áp dụng riêng đối với hành vi phạm tội. Do vậy bị cáo Lục An N được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm i, r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.

Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lục An N.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận người bị hại bà Hoàng Thị L đã nhận lại toàn bộ tài sản là 01(Một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J7 Pro J730 Blue Pastel và các giấy tờ liên quan theo Quyết định xử lý vật chứng số: 01 ngày 05/02/2018 của Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng. Hội đồng xét xử không tiếp tục xem xét thêm.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với 01(Một) sim điện thoại di động mạng Viettel (Nano) sim hiện đã bị khóa hai chiều gọi đi và gọi đến, có số thuê bao: 01637359194 cần tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Bị cáo Lục An N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật;

Đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, mức hình phạt, hướng xử lý vật chứng, án phí là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lục An N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, r, s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Xử phạt bị cáo Lục An N 06 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 12 (Mười hai tháng) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã Bế T, huyện H, tỉnh Cao Bằng để giám sát và giáo dục.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ngày 05/02/2018 tại Cơ quan Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng bị cáo đã tiến hành giao trả lại 01(Một) điện thoại Samsung Galaxy J7 Pro J730 Blue Pastel và các giấy tờ liên quan cho chủ sở hữu hợp phápcho bà Hoàng Thị L, sinh  năm 1982; NĐKHKTT: Xóm N, xã T, huyện A, tỉnh Cao Bằng.

Nơi công tác: Trường Tiểu học N, xã M, huyện B, tỉnh Cao Bằng.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01(Một) sim điện thoại di động mạng Viettel (Nano) sim hiện đã bị khóa hai chiều gọi đi và gọi đến, có số thuê bao: 01637359194.

Xác nhận tình trạng vật chứng của vụ án do Chi cục thi hành án dân sự, huyện Bảo Lâm, Cao Bằng đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng số: 12 ngày 05/ 4/2018. 

4. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 và theo quy định tại khoản 2 Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Lục An N phải chịu 200.000đ, (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, để sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết công khai bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2018/HS-ST ngày 20/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:06/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về