TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG
BÁN ÁN 06/2018/DS-ST NGÀY 09/02/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Ngày 09 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 191/2017/TLST-DS ngày 06 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp hợp đồng góp hụi, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2018/QĐXXST-DS, ngày 23 tháng 01 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Văn H, sinh năm 1969 và bà Trần Thị L, sinh năm 1975, cùng địa chỉ: Số , ấp H B, xã Đ H, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng (đều có mặt).
- Bị đơn: Bà Đỗ Thị B, sinh năm 1950, địa chỉ: Số , ấp H B, xã Đ H, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
*Theo đơn khởi kiện ngày 04/12/2017 và biên bản hoà giải ngày 22/01/2018, nguyên đơn ông Lê Văn H và bà Trần Thị L thống nhất trình bày:
Ông, bà là chủ hụi, còn bà Đỗ Thị B là hụi viên tham gia chơi 06 dây hụi cụ thể như sau:
- Dây 1: Hụi mùa 1.000.000 đồng, mở ngày 20/11/2009 (âl), có 25 phần, bà B tham gia 01 phần, khui lần thứ 04 bà B hốt, sau khi lĩnh hụi, bà B có đóng hụi chết được 16 lần, đến nay 04 lần hụi chết bà B không đóng, nên ông, bà phải đóng thay số tiền 4.000.000 đồng. Dây hụi đến tháng 11/2017 (âl) mãn, còn 01 lần đóng.
- Dây 2: Hụi mùa 1.000.000 đồng, mở ngày 20/11/2009 (âl), có 25 phần, bà B tham gia 01 phần, khui lần thứ 04 bà B hốt, sau khi lĩnh hụi, bà B có đóng hụi chết được 16 lần, đến nay 04 lần hụi chết bà B không đóng, nên ông, bà phải đóng thay với số tiền 4.000.000 đồng. Dây hụi đến tháng 11/2017 (âl) mãn, còn 01 lần đóng.
- Dây 3: Hụi mùa 1.000.000 đồng, mở ngày 20/11/2009 (âl), có 25 phần, bà B tham gia 01 phần, khui lần thứ 04 bà B hốt, sau khi lĩnh hụi, bà B có đóng hụi chết được 16 lần, đến nay 04 lần hụi chết bà B không đóng, nên ông, bà phải đóng thay với số tiền 4.000.000 đồng. Dây hụi đến tháng 11/2017 (âl) mãn, còn 01 lần đóng.
- Dây 4: Hụi mùa 5.000.000 đồng, mở ngày 12/4/2014 (âl), có 12 phần, bà B tham gia 01 phần, khui lần thứ 04 bà B hốt, sau khi lĩnh hụi, bà B có đóng hụi chết được 03 lần, đến nay 04 lần hụi chết bà B không đóng, nên ông, bà phải đóng thay với số tiền 20.000.000 đồng. Dây hụi đến tháng 11/2017 (âl) mãn, còn 01 lần đóng.
- Dây 5: Hụi mùa 2.000.000 đồng, mở ngày 12/4/2014 (âl), có 15 phần, bà B tham gia 01 phần, khui lần thứ 03 bà B hốt, sau khi lĩnh hụi, bà B có đóng hụi chết được 04 lần, đến nay 04 lần hụi chết bà B không đóng, nên ông, bà phải đóng thay với số tiền 8.000.000 đồng. Dây hụi đến tháng 11/2018 (âl) mãn, còn 04 lần đóng.
- Dây 6: Hụi mùa 2.000.000 đồng, mở ngày 19/7/2014 (âl), có 15 phần, bà B tham gia 01 phần, khui lần thứ 06 bà B hốt, sau khi lĩnh hụi đến nay, 04 lần hụi chết bà B không đóng, nên ông, bà phải đóng thay với số tiền 8.000.000 đồng. Dây hụi đến tháng 3/2019 (âl) mãn, còn 05 lần đóng.
Như vậy, tổng số tiền vợ chồng ông, bà đã đóng thay cho bà Đỗ Thị B là 48.000.000 đồng. Vào tháng 7/2016 (âl), bà B đã trả cho ông, bà số tiền 6.000.000 đồng và thỏa thuận khấu trừ phần hụi khác 8.000.000 đồng. Vậy số tiền bà B còn thiếu ông, bà là 34.000.000 đồng.
Nay ông, bà yêu cầu Toà án giải quyết buộc bà Đỗ Thị B phải trả số tiền nợ hụi còn lại là 34.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
*Tại Giấy thừa nhận nợ ngày 25/8/2017 và biên bản hoà giải ngày 22/01/2018, bị đơn bà Đỗ Thị B trình bày: Bà thừa nhận có tham gia 06 dây hụi theo như lời trình bày của vợ chồng ông Lê Văn H, bà Trần Thị L nêu trên và có ký nhận nợ ngày 25/8/2017 âm lịch. Nay bà đã lớn tuổi, không có khả năng lao động, nên chỉ đồng ý trả dần số tiền nợ 34.000.000 đồng cho vợ chồng ông H, bà L theo phương thức mỗi tháng trả 200.000đ, cho đến khi hết nợ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Tại phiên toà, nguyên đơn không rút lại đơn khởi kiện, các đương sự không thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
[1] Xét thấy: Giữa vợ chồng ông Lê Văn H, bà Trần Thị L với bà Đỗ Thị B có thoả thuận và giao kết hợp đồng góp hụi với nhau trên cơ sở tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội, các bên tham gia giao dịch đều là người có đủ năng lực hành vi dân sự, nên đây là giao dịch dân sự hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.
[2] Bà Đỗ Thị B thừa nhận có tham gia chơi hụi và hiện nay còn nợ vợ chồng ông Lê Văn H, bà Trần Thị L số tiền 34.000.000đ và đồng ý trả số tiền này cho vợ chồng ông H, bà L theo phương thức trả định kỳ mỗi tháng trả 200.000đ cho đến khi dứt nợ. Ngược lại, tại phiên toà, vợ chồng ông H, bà L chỉ đồng ý cho bà B trả định kỳ mỗi tháng 5.000.000đ cho đến khi dứt nợ. Cho nên Hội đồng xét xử không thể chấp nhận theo phương thức trả nợ của bà B đưa ra. Các đương sự có thể tiếp tục thoả thuận phương thức trả nợ phù hợp ở giai đoạn thi hành án.
[3] Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào Khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 1 Điều 281, các điều 256, 290, 292 và 479 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông H, bà L, buộc bà Đỗ Thị B phải có nghĩa vụ trả cho vợ chồng ông H, bà L số tiền nợ hụi 34.000.000đ.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016;
- Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận, nên vợ chồng ông H, bà L không phải chịu án phí và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.
- Bà B được miễn nộp tiền án phí, do thuộc trường hợp người cao tuổi. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 2 Điều 92, khoản 1 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Khoản 1 Điều 281, các điều 256, 290, 292 và 479 của Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016; Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 về họ, hụi, biêu, phường.
Tuyên xử:
1) Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Lê Văn H, bà Trần Thị L, buộc bà Đỗ Thị B phải có nghĩa vụ trả cho vợ chồng ông H, bà L số tiền nợ hụi 34.000.000đ (Ba mươi bốn triệu đồng).
2) Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả lãi cho người được thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015, đối với số tiền chậm thi hành án.
3) Án phí dân sự sơ thẩm:
- Vợ chồng ông Lê Văn H, bà Trần Thị L không phải chịu và được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp 850.000đ (Tám trăm năm mươi ngàn đồng), theo biên lai thu tiền số 0009444, ngày 04/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách.
- Bà Đỗ Thị B được miễn nộp tiền án phí.
4) Báo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Bản án 06/2018/DS-ST ngày 09/02/2018 về tranh chấp hợp đồng góp hụi
Số hiệu: | 06/2018/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 09/02/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về