TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIO LINH, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 06/2017/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2017 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 22 tháng 11 năm 2017, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 85/2017/TLST- HNGĐ ngày 10/10/2017 về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/11/2017 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1992.
Nơi ĐKHKTT: thôn An Bình, xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Hiện ở tại: thôn K, xã T, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Anh Đ, sinh năm 1988.
Địa chỉ: thôn A, xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ngày 25/9/2017 cũng như ý kiến tại phiên hòa giải và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày: Chị Trần Thị L và anh Nguyên Anh Đ yêu nhau và đăng ký kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào ngày 23 tháng 12 năm 2014 tại UBND xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Sau một thời gian sống chung thì vợ chồng không phát sinh mâu thuẫn lớn mà chỉ phát sinh giữa chị L với gia đình chồng, nguyên nhân chủ yếu do lời ăn tiếng nói giữa chị L và mẹ chồng không hợp nhau. Vào ngày 01/10/2015 (âm lịch) chị L về nhà mẹ đẻ sống.
Sau khoảng 04 tháng, chị L có làm đơn gửi đến UBND xã G để hòa giải nhưng không có kết quả nên chị và con gái sống ở nhà mẹ đẻ tại thôn K, xã T từ đó đến nay. Chị L nhận thấy tình cảm sống chung của vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Anh Đ.
- Về con chung: Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Anh Đ có một con chung tên là cháu Nguyễn Thị Thu T, sinh ngày 22/9/2015. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng chị được ly hôn chị L có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu T và không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con chung.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Tại biên bản ghi lời khai ngày 26/10/2017 và tại phiên hòa giải anh Nguyễn Anh Đ trình bày: Về việc kết hôn, thời gian chung sống, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị L và mẹ chồng, con chung như chị L trình bày là đúng sự thật. Nay tình cảm vợ chồng không còn, nên anh Nguyễn Anh Đ thuận tình ly hôn với chị Trần Thị L. Về con chung, nếu ly hôn anh Đ đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên anh Nguyễn Anh Đ từ chối ký vào các biên bản này. Tại phiên tòa hôm nay, anh Nguyễn Anh Đ đề nghị Tòa án giải quyết mối quan hệ hôn nhân giữa anh và chị L theo quy định của pháp luật; về con chung anh có nguyện vọng nuôi cháu Nguyễn Thị Thu T và không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.
Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã được thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định. Về nội dung vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Trần Thị L ly hôn anh Nguyễn Anh Đ. Về con cái đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Nguyễn Thị Thu T, sinh ngày 22/9/2015 cho chị L trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng, anh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Về án phí, chị Trần Thị L phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong Hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Anh Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đúng pháp luật vào ngày 23 tháng 12 năm 2014 tại UBND xã G, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Trong quá trình chung sống, do có mâu thuẫn với gia đình nên từ ngày 01/10/2015 (âm lịch) chị L về nhà mẹ đẻ sống. Tòa án đã tiến hành xác minh quá trình chung sống, tình cảm cũng như mâu thuẫn của vợ chồng chị L và anh Đ tại địa phương và gia đình anh Đ đều xác nhận: Cách đây khoảng hai năm chị L có gửi đơn đến thôn và UBND xã G để hòa giải nhưng không có kết quả và chị L không sống chung với anh Đ từ cuối năm 2015 đến nay. Tại phiên tòa, chị L giữ nguyên nguyện vọng xin ly hôn. Anh Đ cũng thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Xét thấy, tình cảm vợ chồng của chị Trần Thị L và anh Nguyễn Anh Đ ban đầu không có mâu thuẫn lớn, nhưng đến nay đã hơn hai năm vợ chồng không sống chung, không còn tình cảm và trách nhiệm với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Trần Thị L và anh Nguyễn Anh Đ ly hôn.
[2] Về con chung: Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Anh Đ có 01 con chung là cháu Nguyễn Thị Thu T, sinh ngày 22/9/2015. Tại phiên tòa anh Đ có nguyên vọngđược trực tiếp nuôi cháu Thảo nhưng xét thấy cháu T, sinh ngày 22/9/2015, từ nhỏ cháu sống với mẹ, hiện nay cháu T chưa được 36 tháng tuổi và là con gái nên rất cần sự chăm sóc của người mẹ cả về tâm lý lẫn sinh lý. Hiện chị L có chổ ở và thu nhậpổn định. Để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu xét thấy cần giao cháu NguyễnThị Thu T cho chị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng như nguyện vọng của chị L.
[3] Về mức cấp dưỡng: Chị L không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi conchung nên anh Đ không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Các bên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.
[5] Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 246 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 56, Điều 57, khoản 1 Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình xử:
- Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Thị L ly hôn anh Nguyễn Anh Đ .
- Về con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Thu T, sinh ngày 22/9/2015 cho chị Trần Thị L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; anh Nguyễn Anh Đ không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóccon chung, không ai được cản trở quyền này.
2. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2014/0000330 ngày10/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Chị L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 06/2017/HNGĐ-ST ngày 22/11/2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 06/2017/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gio Linh - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 22/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về