Bản án 06/2017/HNGĐ-PT ngày 18/05/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 06/2017/HNGĐ-PT NGÀY 18/05/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 18 tháng 5 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 01/2017/TLPT-HNGĐ ngày 13 tháng 2 năm 2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn.

Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 15/2016/HNGĐ-ST ngày 9 tháng 12 năm 2016 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Gia Lai bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 32/2017/QĐPT-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Lê Đăng G; địa chỉ: Thôn H, xã I, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt

2. Bị đơn: Chị Trần Thị Mỹ S; địa chỉ: Thôn A, xã I, huyện C, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

3. Người kháng cáo: Nguyên đơn là anh Lê Đăng G.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản khai có tại hồ sơ vụ án, nguyên đơn là anh Lê Đăng G trình bày :

Năm 2009, anh và chị Trần Thị Mỹ S tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn. Ban đầu vợ chồng sống hạnh phúc, nhưng một thời gian sau thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm. Anh và chị S đã sống ly thân từ năm2013 đến nay, không còn ai quan tâm đến nhau nữa. Nay tình cảm vợ chồng đãhết, nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị S.

Về con: Anh và chị S có một con là cháu Lê Đăng Q, sinh ngày 6/12/2010. Ly hôn, anh đề nghị được nuôi con. Tuy nhiên, hiện nay do anh đang công tác trong quân đội, nên đã gửi con về quê cho cha mẹ anh là ông Lê Xuân T và bà Võ Thị H ở thôn C, xã P, huyện T, tỉnh Nghệ An nuôi dưỡng. Khi nào làm nhà và có điều kiện, anh sẽ đón con về chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Anh không yêu cầu chị S phải cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung, anh không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn là chị Trần Thị Mỹ S trình bày:

Chị và anh G kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn như anh G đã trình bày. Vợ chồng đã có nhiều mâu thuẫn, nên tình cảm không còn và đã sống ly thân từ lâu. Nay, chị đồng ý việc ly hôn.

Về con: Chị và anh G có một con là cháu Lê Đăng Q, sinh ngày 6/12/2010. Trong thời gian vợ chồng ly thân, anh G đã đưa con về quê nội. Mặc dù rất nhớ con, nhưng vì con ở xa nên chị ít có điều kiện để Thường xuyên thăm nom và chăm sóc con. Chị đã hai lần về quê đưa con lên để nuôi, nhưng anh G và gia đình anh G không đồng ý. Việc anh G đưa con về quê đã chia cắt tình cảm mẹ con của chị, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của con khi con còn quá nhỏ, không được sự gần gũi chăm sóc từ người mẹ, trong khi chị có đầy đủ điều kiện để nuôi dạy con. Nay chị yêu cầu được nuôi con, đề nghị anh G phải giao con cho chị nuôi.

Chị không yêu cầu anh G phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 15/2016/HNGĐ-ST ngày9/12/2016, Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Gia Lai đã quyết định:

Áp dụng khoản 1 Điều 28, Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự; áp dụng cácđiều 51, 56, 58, 81,82,83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Xử:

Về hôn nhân: Anh Lê Đăng G được ly hôn với chị Trần Thị Mỹ S.

Về nuôi con: Buộc anh Lê Đăng G phải giao con chung là cháu Lê Đăng Q, sinh ngày 6/12/2010 cho chị Trần Thị Mỹ S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Sau khi ly hôn, anh Lê Đăng G có quyền, nghĩa vụ thăm nom con màkhông ai được cản trở.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc của các cá nhân, tổ chứcđược quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thểquyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm; thông báo quyền yêu cầu, tự nguyện hoặc cưỡng chế thi hành án và thời hiệu thi hành án; tuyên quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 15 tháng 12 năm 2016, nguyên đơn là anh Lê Đăng G kháng cáo yêucầu Tòa án cấp phúc thẩm giao cho anh được nuôi con.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của anh Lê Đăng G và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Anh Lê Đăng G và chị Trần Thị Mỹ S có một con là cháu Lê Đăng Q (sinh ngày 6-12-2010). Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định giao con cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn. Anh G kháng cáo yêu cầu được nuôi con. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng :

Việc giao con người nào nuôi dưỡng là căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt và sự phát triển bình thường của con chưa thành niên chứ không chỉ căn cứ vào việc ai có điều kiện vật chất hơn.

Nội dung tại Biên bản xác minh do Tòa án cấp sơ thẩm lập ngày 6-10-2016 thể hiện chị S có chỗ ở, thu nhập ổn định, có điều kiện về thời gian để Thường xuyên gần gũi chăm sóc con. Vì vậy, lời khai của anh G cho rằng chị S không có nhà riêng, hiện nay đang ở nhờ nhà cha mẹ, không có công việc ổn định, không có tiền riêng để nuôi dạy con là không có cơ sở.

Lời khai của các đương sự thể hiện, anh G đã tự ý đưa con về quê (tỉnh Nghệ An) cho cha mẹ anh chăm sóc trong một thời gian dài. Sự việc này đã gây ảnh hưởng xấu đến quyền được cha mẹ thương yêu, chăm sóc và giáo dục của cháu Q; gây khó khăn cho chị S khi thực hiện quyền chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên. Mặt khác, hiện anh G là bộ đội, đây là công việc đặc thù, nên tuy có thu nhập ổn định, nhưng anh G sẽ không có nhiều thời gian để thường xuyên gần gũi, chăm nom con như chị S.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm buộc anh G phải giao con cho chị S trựctiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại cácĐiều 68, 69, 71, 72 và Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Tham gia tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm, anh G không xuất trình được chứng cứ để chứng minh chị S trực tiếp nuôi con sẽ không đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con.

Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của anh G.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên anh G phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào khoản 1 Điêù 308 Bộ luật tố tụng dân sự .

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn anh Lê Đăng G; giữ nguyên phần bản án đã xét xử tranh chấp nuôi con khi ly hôn tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 15/2016/HNGĐ-ST ngày 9/12/2016 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Gia Lai về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” giữa nguyên đơn là anh Lê Đăng G với bị đơn là chị Trần Thị Mỹ S.

2. Án phí dân sự phúc thẩm:

Buộc anh Lê Đăng G phải chịu 200.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp là 200.000 đồng theo biên lai số 0000569 ngày 27-8-2016 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Gia Lai; anh Lê Đăng G đã nộp đủ án phí dân sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

403
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 06/2017/HNGĐ-PT ngày 18/05/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:06/2017/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/05/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về