Bản án 05/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THÁI THỤY, TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 21/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:01/2021/TLST-HS ngày 06/01/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:02/2021/QĐXXST-HS ngày 11/01/2021 đối với bị cáo:

Vũ Ngọc M, sinh ngày 21/9/1998 tại xã M1, huyện T1, tỉnh T; Nơi cư trú: Thôn V, huyện M1, huyện T1, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn Q (sinh năm 1974) và bà Đinh Thị N (sinh năm 1977); Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Tại bản án số 66/2015/HS-ST ngày 19/11/2015 của TAND huyện Thái Thụy xử phạt 01 năm 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”, tháng 7/2017 chấp hành xong hình phạt. Bị cáo bị tạm giữ từ 24/10/2020 đến ngày 30/10/2020 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện T1. (Có mặt)

* Bị hại: Ông Giang Văn T2, sinh năm 1975; Địa chỉ: Thôn V, xã M1, huyện T1, tỉnh T. (Có đơn xin xét xử vắng mặt)

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Bà Bùi Thị T3, sinh năm 1970; (Có mặt) - Ông Trần Đức M2, sinh năm 1965; (Có mặt) Đều trú tại: Thôn C, xã M1, huyện T1, tỉnh T.

- Bà Đinh Thị N, sinh năm 1977; (Có mặt) - Ông Vũ Văn Q, sinh năm 1974; (Vắng mặt) Đều trú tại: Thôn V, xã M1, huyện T1, tỉnh T.

* Người làm chứng:

- Anh Trịnh Văn H (tên gọi khác: T4), sinh năm 1983; Địa chỉ: Thôn C, xã M1, huyện T1, tỉnh T. (Có đơn xin vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền chi tiêu cá nhân nên khoảng 19 giờ ngày 20/10/2020 Vũ Ngọc M mang theo 01 thanh sắt dài 25,5cm (dạng mũi đục của máy đục bê tông) lén lút trèo tường vào nhà ông Giang Văn T2 với mục đích trộm cắp tài sản. M dùng thanh sắt cậy khóa cửa nhà chính và phòng bếp, ở trong bếp M thấy có 01 tủ lạnh nhãn hiệu Sanyo để ở bên trái từ cửa đi vào và 01 máy lọc nước nhãn hiệu Kakaro để ở cạnh cửa sổ phòng bếp. M quay trở về nhà lấy xe rùa và tiếp tục dùng thanh sắt lúc trước phá khóa cổng đẩy xe rùa vào đến hiên sát phòng bếp, sau đó M lần lượt di chuyển tủ lạnh và máy lọc nước ra ngoài để lên xe rùa và chở từng chiếc về nhà cất giấu. Đến khoảng 10 giờ sáng ngày 21/10/2020, M đi bộ ra quán tạp hóa cạnh nhà, tại đây M gặp anh Trịnh Văn H (tức T4), M hỏi anh H có mua tủ lạnh và máy lọc nước không, anh H đồng ý và cùng M về nhà xem. Anh H trả M 1.000.000đ (Một triệu đồng) cả máy lọc nước và tủ lạnh nhưng M không đồng ý bán nên anh H đi về. Chiều cùng ngày, anh H gặp bà Bùi Thị T3 (là mẹ vợ của anh H) ở chợ và nói với bà T3 là M có chiếc tủ lạnh và máy lọc nước cũ cần bán. Bà T3 có nhu cầu mua nên cùng chồng là ông Trần Đức M2 đến nhà M để hỏi mua tủ lạnh và máy lọc nước. M đồng ý bán cho ông M2, bà T3 với giá 1.200.000đ (Một triệu hai trăm nghìn đồng). Sau đó, ông M2 chở máy lọc nước và tủ lạnh về nhà, khoảng 15 phút sau thì M đến nhà ông M2 lấy tiền và bà T3 trả cho M 1.200.000đ. Số tiền trên M đã tiêu sài cá nhân hết. Đến ngày 24/10/2020 M đến Công an huyện T1 đầu thú và đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 35/KL-ĐG ngày 26/10/2020 kết luận:

- 01 (Một) chiếc máy lọc nước nhãn hiệu Kakaro loại KM108 công suất 10- 15l/h cũ, đã qua sử dụng không kiểm tra bên trong, không rõ tốt xấu tại thời điểm định giá 22/10/2020 có giá 2.100.000đ.

- 01 (Một) chiếc tủ lạnh màu xanh nhãn hiệu Sanyo loại SR-11VN cũ đã qua sử dụng, không kiểm tra bên trong, không rõ tốt xấu tại thời điểm định giá 22/10/2020 có giá 600.000đ.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về kết luận định giá nêu trên.

Vật chứng được cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T1 xác định:

- 01 (Một) chiếc xe rùa cũ, đã qua sử dụng, xe có một bánh hơi, khung bằng tuýp sắt loại phi 2,7cm; tay cầm ở 2 bên dài 51cm, xe đo nơi cao nhất là 55cm, thùng xe có kích thước 76x54cm, đo nơi sâu nhất là 16cm, thùng làm bằng tôn, bên trong lòng thùng có nhiều vết han gỉ sắt, có bám dính vữa xi măng cát, xe có hai chân chống, hai bên làm bằng thép xoắn đặc loại phi 1,0cm sơn màu đỏ.

- 01 (Một) đoạn sắt dài 25,5cm, một đầu tròn có đường kính 1,5cm, một đầu nhọn có 4 cạnh đã bị tày, phần thân có 6 cạnh đo nơi rộng nhất là 02cm, màu nâu xám (kiểu dáng của mũi đục của máy đục bêtông).

- 01 (Một) chiếc khóa loại khóa dây thép bọc nhựa màu xanh, tổng chiều dài 63cm, ổ khóa có mặt trước in chữ “Việt Tiệp” màu vàng bằng kim loại, lẫy của khóa bị hỏng, đầu móc khóa bị cong gập lại.

- 01 (Một) ổ khóa màu đen, được in hai mặt, một mặt in “Việt-Tiệp”, một mặt in “Look”, móc khóa bằng kim loại màu trắng hình chữ U trên móc khóa có dấu vết hằn kim loại, mặt ở ổ khóa in chữ “Look” có dấu vết mất sơn, hằn kim loại ở cạnh trên.

- 01 (Một) ổ khóa màu đen, được in hai mặt, một mặt in “Việt-Tiệp”, một mặt in “Look”, móc khóa bằng kim loại màu trắng hình chữ U trên móc khóa có dấu hằn kim loại ở cạnh trên, ở vị trí tiếp giáp giữa ổ khóa và móc khóa, mép ổ khóa bị gãy vỡ.

Bản cáo trạng số 04/CT-VKSTT ngày 05/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy đã truy tố bị cáo Vũ Ngọc M về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và diễn biến sự việc như đã nêu trên.

Bị hại có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và trình bày ông đã nhận lại toàn bộ các tài sản M lấy cắp gồm chiếc tủ lạnh và máy lọc nước, không bị hư hòng gì nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm bất kì khoản chi phí nào khác, đối với những chiếc khóa cửa bị Vũ Ngọc M phá hỏng ông không yêu cầu định giá và không yêu cầu M bồi thường. Ông T2 không đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị T3 và ông Trần Đức M2 đều trình bày: Ông bà cũng như anh H (T4) không biết các tài sản M bán là do trộm cắp mà có, do có nhu cầu sử dụng nên đã mua tủ lạnh và máy lọc nước của M với giá 1.200.000đ, ông bà đã tự nguyện trả lại các đồ dùng bị trộm cắp cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T1 và được bà N (mẹ đẻ M) thay bị cáo M bồi thường cho ông bà 1.200.000đ . Ông bà không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm bất kì một khoản chi phí nào khác.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị N trình bày: Bà tự nguyện hoàn trả thay M 1.200.000đ bằng số tiền là tài sản riêng của bà và bà không yêu cầu M trả lại số tiền đó. Bà không biết việc M trộm cắp tài sản đem bán. Về chiếc xe rùa M dùng để chở các tài sản trộm cắp là vật dụng sinh hoạt hàng ngày của gia đình bà, bà đề nghị HĐXX trả lại cho bà để bà phục vụ đời sống sinh hoạt trong gia đình. Ông Vũ Văn Q đã nhận được giấy triệu tập của Tòa án nhưng xin vắng mặt tại phiên tòa, ông Q cũng thống nhất ý kiến của bà và không đề nghị gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Ngọc M phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Vũ Ngọc M từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 24/10/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại cho bà Đinh Thị N và ông Vũ Văn Q 01 chiếc xe rùa cũ đã qua sử dụng; Tịch thu tiêu hủy các đồ vật sau: 01 thanh sắt dài 25,5cm, một đầu tròn có đường kính 1,5cm, một đầu nhọn; 01 chiếc khóa loại khóa dây thép bọc nhựa màu xanh, tổng chiều dài 63cm, ổ khóa có mặt trước in chữ “Việt Tiệp”; 01 ổ khóa màu đen, được in hai mặt, một mặt in “Việt-Tiệp”, một mặt in “Look”; 01 ổ khóa màu đen, được in hai mặt, một mặt in “Việt-Tiệp”, một mặt in “Look”.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì và nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai trái và rất ân hận, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo có thể trở thành người công dân có ích với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của các Cơ quan tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố và phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ như: Biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường ngày 22/10/2020, Các biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu ngày 24/10/2020 và 30/10/2020; Bản kết luận định giá số 35/KL-ĐG ngày 26/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, Ủy ban nhân dân huyện Thái Thụy cùng các tài liệu, chứng cứ khác do cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Trong khoảng thời gian 19 giờ ngày 20/10/2020, bị cáo Vũ Ngọc M đã lợi dụng sơ hở, lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông Giang Văn T2 01 chiếc tủ lạnh nhãn hiệu Sanyo đã qua sử dụng trị giá 600.000đ và 01 chiếc máy lọc nước nhãn hiệu Kakaro đã qua sử dụng trị giá 2.100.000đ. Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 2.700.000 với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đã phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Thái Thụy truy tố. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Điều 173: Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

…..

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.

[3] Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của công dân, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.

[4] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, sau khi phạm tội đã ra đầu thú tại Công an huyện T1 nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Bộ luật hình sự. Bản thân bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng gì có giá trị do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo tuy không có tiền án, tiền sự nhưng là người có nhân thân xấu, là đối tương nghiện ma túy, đã từng bị xử phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản”, hiểu được sự trừng phạt của pháp luật nhưng không chịu rèn luyện, tu dưỡng bản thân, trở thành công dân lương thiện mà nhiều lần trộm cắp tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh xã hội ở địa phương, gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân trong việc bảo quản tài sản. Do đó, việc đưa bị cáo ra xét xử là đúng quy định của pháp luật, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm minh phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, răn đe bị cáo và góp phần vào công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản bị mất, không bị hư hỏng gì nên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm bất kì khoản chi phí nào khác, đối với những chiếc khóa cửa bị Vũ Ngọc M phá hỏng ông T2 không yêu cầu định giá và không yêu cầu M bồi thường. Ông M2 và bà T3 cũng đã nhận được số tiền 1.200.000đ là tiền mua tài sản do mẹ đẻ bị cáo hoàn trả thay bị cáo và không yêu cầu thanh toán thêm bất kỳ khoản nào khác. Bà Đinh Thị N không yêu cầu bị cáo M phải hoàn trả cho bà số tiền bà đã trả cho ông M2 và bà T3 thay bị cáo. Do đó HĐXX không đặt ra giải quyết về trách nhiệm dân sự.

[7] Về xử lý vật chứng: - 01 (Một) chiếc xe rùa cũ, đã qua sử dụng là tài sản sinh hoạt hàng ngày của gia đình ông Q, bà N. Ông Q, bà N không biết M sử dụng vào việc trộm cắp tài sản và bà N đề nghị được xin lại tài sản để phục vụ cho cuộc sống gia đình nên HĐXX thấy cần trả lại cho gia đình bà Đinh Thị N là đúng quy định của pháp luật; 01 (Một) đoạn sắt dài 25,5cm (kiểu dáng của mũi đục của máy đục bêtông); 01 (Một) chiếc khóa loại khóa dây thép bọc nhựa màu xanh, tổng chiều dài 63cm, ổ khóa có mặt trước in chữ “Việt Tiệp”; 01 (Một) ổ khóa màu đen, được in hai mặt, một mặt in “Việt-Tiệp”, một mặt in “Look”; 01 (Một) ổ khóa màu đen, được in hai mặt, một mặt in “Việt-Tiệp”, một mặt in “Look là công cụ phương tiện có liên quan đến việc phạm tội đã không còn giá trị sử dụng, đối với những chiếc khóa đã hư hỏng bị hại ông Giang Văn T2 cũng không đề nghị nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 (Một) chiếc máy lọc nước nhãn hiệu Kakaro và chiếc tủ lạnh màu xanh nhãn hiệu Sanyo loại SR-11VN quá trình điều tra xác định chủ sở hữu hợp pháp là ông Giang Văn T2, ông T2 có đơn đề nghị xin lại tài sản. Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản trên cho ông T2 quản lý theo Quyết định xử lý vật chứng số 37/QĐXLVC ngày 04/11/2020 là đúng quy định của pháp luật.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Vũ Ngọc M phạm tội "Trộm cắp tài sản".

2. Về hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Vũ Ngọc M 01 (Một) năm 03 (ba) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 24/10/2020.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết.

4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy:

- 01 (Một) đoạn sắt dài 25,5cm, một đầu tròn có đường kính 1,5cm, một đầu nhọn có 4 cạnh đã bị tày, phần thân có 6 cạnh đo nơi rộng nhất là 02cm, màu nâu xám (kiểu dáng của mũi đục của máy đục bêtông).

- 01 (Một) chiếc khóa loại khóa dây thép bọc nhựa màu xanh, tổng chiều dài 63cm, ổ khóa có mặt trước in chữ “Việt Tiệp” màu vàng bằng kim loại, lẫy của khóa bị hỏng, đầu móc khóa bị cong gập lại.

- 01 (Một) ổ khóa màu đen, được in hai mặt, một mặt in “Việt-Tiệp”, một mặt in “Look”, móc khóa bằng kim loại màu trắng hình chữ U trên móc khóa có dấu vết hằn kim loại, mặt ở ổ khóa in chữ “Look” có dấu vết mất sơn, hằn kim loại ở cạnh trên.

- 01 (Một) ổ khóa màu đen, được in hai mặt, một mặt in “Việt-Tiệp”, một mặt in “Look”, móc khóa bằng kim loại màu trắng hình chữ U trên móc khóa có dấu hằn kim loại ở cạnh trên, ở vị trí tiếp giáp giữa ổ khóa và móc khóa, mép ổ khóa bị gãy vỡ.

- Trả lại cho ông Đinh Văn Quản, sinh năm 1974 và bà Đinh Thị N, sinh năm 1977; Đều trú tại: Thôn V, xã M1, huyện T1, tỉnh T 01 (Một) chiếc xe rùa cũ, đã qua sử dụng, xe có một bánh hơi, khung bằng tuýp sắt loại phi 2,7cm; tay cầm ở 2 bên dài 51cm, xe đo nơi cao nhất là 55cm, thùng xe có kích thước 76x54cm, đo nơi sâu nhất là 16cm, thùng làm bằng tôn, bên trong lòng thùng có nhiều vết han gỉ sắt, có bám dính vữa xi măng cát, xe có hai chân chống, hai bên làm bằng thép xoắn đặc loại phi 1,0cm sơn màu đỏ.

(Các tài sản, đồ vật trên có đặc điểm ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/01/2021 tại Chi cục thi hành án huyện Thái Thụy)

5. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Vũ Ngọc M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm .

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 21/01/2021. Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án được tống đạt hợp lệ. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc nhận được bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 05/2021/HS-ST ngày 21/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thái Thụy - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về