Bản án 05/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI

Trong ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 04/2021/TLST-HS-CTN ngày 20 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2021/QĐXXST-HS- CTN ngày 01 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đối với bị cáo:

Phan Thành T (Tèo Lớn), sinh năm 1978; Giới tính: Nam; Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Đạo Phật; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Nghề nghiệp: Làm thuê; Cha: Phan Thành M, sinh năm 1954 (đã chết); Mẹ: Đỗ Thị T, sinh năm 1957; Anh, chị, em ruột: Có 05 người, bị cáo là người thứ hai; Vợ: Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1982; Con: 01 người, sinh 2003.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/3/2021 cho đến nay.

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: Đỗ Ngọc D, sinh ngày 28/6/2014. (vắng mặt) Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

* Đại diện hợp pháp của bị hại:

1. Ông Đỗ Thành Th, sinh năm 1986; (có mặt) 2. Bà Trần Thị Thu C, sinh năm 1989; (có mặt) Cùng cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

* Người bào chữa:

Luật sư: Ông Huỳnh Văn B – Văn phòng luật sư Huỳnh Văn B, thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Giang, bào chữa chỉ định cho bị cáo Phan Thành T. (có mặt) Địa chỉ: khóm Đ9, phường MK, Thành phố LX, tỉnh An Giang;

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Văng Thị V – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh An Giang; (có mặt) Địa chỉ: Số 8, Lý Thường Kiệt, phường MB, thành phố LX, tỉnh An Giang.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1982; (có mặt) Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

* Người làm chứng:

1.Phan Thị Ngọc Tr, sinh năm 2003; (có mặt) Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

2. Đỗ Tạt R, sinh năm 1965; (vắng mặt) Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

3. Trần Thị Thanh Ng, sinh năm 1967; (vắng mặt) Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

4. Võ Thị L, sinh năm 1957; (vắng mặt) Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

5. Lê Văn N, sinh năm 1975; (vắng mặt) Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

6. Lý Tuyết L, sinh năm 1941; (vắng mặt) Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

7. Quách Nam Nh, sinh năm 1976; (vắng mặt) Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

8. Nguyễn Thị Thúy K (Phan Thị Thúy K) , sinh năm 1977; (có mặt) Cư trú: Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 27/3/2021, cháu Đỗ Ngọc D (Nún), sinh ngày 28/6/2012 và cháu Đỗ Minh S, sinh ngày 02/3/2019 (em của D) cùng đến phía sau nhà của Phan Thành T, tại Ấp ST, xã PC, thị xã TC, tỉnh An Giang để chơi. Lúc này, T đi đến dùng tay phải phủi lông chó dính trên quần của D và thấy D không phản ứng, T tiếp tục dùng tay kéo quần của D xuống khỏi bộ phận sinh dục rồi dùng ngón tay giữa của bàn tay trái đưa vào bên trong âm đạo của D móc 2 đến 3 cái thì D tự kéo quần lên chạy về nhà. Đến ngày 29/3/2021, chị Trần Thị Thu C (mẹ ruột của D) và gia đình biết được sự việc D bị T xâm hại tình dục, nên đến Công an xã PC trình báo sự việc. Ngày 08/4/2021, T bị khởi tố điều tra.

* Căn cứ Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 153/21TgT ngày 31/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang, đối với Đỗ Ngọc D, sinh năm 2014, kết luận:

- Bộ phận sinh dục ngoài: Vùng môi bé còn đỏ ít.

- Màng trinh nguyên.

- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là:

00% (không không phần trăm).

Tại bản Cáo trạng số 37/CT-VKSAG-P2 ngày 19/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang, đã truy tố:

Bị cáo Phan Thành T, về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” theo điểm c khoản 3 Điều 142 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo Phan Thành T khai nhận: Vào khoản 03 giờ chiều ngày 27/3/2021 hai cháu D và S đến nhà bị cáo chơi với đàn chó con mới đẻ sau nhà, bị cáo thấy trên người của cháu D dính nhiều lông chó nên bị cáo phủi và để chó con xuống đất rồi dùng tay kéo quần của D xuống khỏi bộ phận sinh dục, sau đó bị cáo dùng ngón tay giữa của bàn tay trái đưa vào âm đạo của D khều lên xuống 02 đến 03 cái thì D tự kéo quần lên rồi bỏ chạy về nhà nói với cha mẹ biết bị bị cáo xâm hại tình dục và báo với chính quyền địa phương. Bị cáo biết hành vi của bị cáo là xâm phạm tình dục với cháu D và vi phạm pháp luật xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, tranh luận, xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo; xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; giữ nguyên Cáo trạng như đã truy tố đối với bị cáo Phan Thành T. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm c khoản 3 Điều 142; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phan Thành T từ 13 năm đến 15 năm tù, về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.

Tại phiên tòa đại diện hợp pháp bị hại trình bày, đã nhận 20.000.000 đồng từ phía gia đình bị cáo, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, nên đề nghị không xem xét và tịch thu tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng được thu giữ trong quá trình điều tra.

Luật sư trình bày lời bào chữa cho bị cáo; Trợ giúp viên pháp lý trình bày ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Đều thống nhất về tội danh, khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như Viện kiểm sát truy tố và đề nghị đối với bị cáo không tranh luận. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử có quan tâm xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo; tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; chưa có tiền án, tiền sự; hoàn cảnh gia đình khó khăn; không biết chữ nên nhận thức pháp luật còn hạn chế; bị cáo tác động gia đình khắc phục xong bồi thường thiệt hại; đại diện bị hại yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt; do đó đề nghị có thể xử phạt bị cáo với mức án thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong vụ án này có một số người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa không rõ lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại đến việc xét xử giải quyết vụ án; mặt khác, những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra, khi cần thiết Hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của họ trước tòa. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Những chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa, cũng như trong giai đoạn điều tra bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như Viện kiểm sát truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng; Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 153/21TgT ngày 31/3/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đầy đủ căn cứ để kết luận: Bị cáo Phan Thành T (Tèo Lớn) đã có hành vi thực hiện quan hệ tình dục khác đối với cháu Đỗ Ngọc D (Nún), sinh ngày 28/6/2014 là người dưới 10 tuổi. Cho nên, hành vi của bị cáo Phan Thành T đã phạm vào tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi“ tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 3 Điều 142 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. (3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: ... c) Đối với người dưới 10 tuổi; ...). Vì vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đã truy tố bị cáo Phan Thành T về tội danh và điều luật như đã viện dẫn là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là xâm phạm đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác, là vi phạm pháp luật, nhưng bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, hậu quả xảy ra và cố ý thực hiện. Bị cáo là người đáng tuổi cha, chú của người bị hại, lẽ ra bị cáo phải thấy được trách nhiệm, nghĩa vụ của mình là phải chăm sóc, giáo dục, bảo vệ bị hại như bao trẻ em khác, phải tạo điều kiện thuận lợi để bị hại vui chơi, phát triển lành mạnh về thể chất cũng như tinh thần. Vì trẻ em là thế hệ tương lai của đất nước, của dân tộc mà Nhà nước đặc biệt quan tâm và luôn luôn đầu tư cho trẻ em. Nhưng ngược lại, bị cáo không những không làm tròn được trách nhiệm của mình mà còn lợi dụng sự vắng người, sự ngây thơ khờ dại của bị hại chưa hiểu biết về tình dục để tự bảo vệ mình, bị cáo đã thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác là dùng tay kéo quần của D xuống khỏi bộ phận sinh dục, sau đó bị cáo dùng ngón tay giữa của bàn tay trái xâm nhập vào âm đạo của bị hại khều lên, xuống nhiều lần trái ý muốn của bị hại nhằm thỏa mãn dục vọng thẤp STèn của bản thân thì bị phát hiện bắt giữ.

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội; phạm vào tình tiết định khung tăng nặng hình phạt là “Đối với người dưới 10 tuổi”; trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm, danh dự, quyền được bảo vệ thân thể; gây tác hại xấu đến sự phát triển bình thường về tâm, sinh lý của người bị hại; làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển đạo đức, nhân cách sống, thuần phong mỹ tục; đồng thời để lại nỗi đau về thể xác và tinh thần của bị hại, không chỉ ở hiện tại mà cả về tương lai. Mặt khác, nó còn gây ảnh hưởng đến giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc; gây căm phẫn trong quần chúng nhân dân; gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải xử phạt bị cáo với một mức án nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; chưa có tiền án tiền sự; hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình; không biết chữ nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế; bị cáo tác động gia đình khắc phục xong bồi thường thiệt hại; bị cáo có mối quan hệ bà con với bị hại; đại diện hợp pháp bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có cân nhắc xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Bị cáo là người trực tiếp xâm hại đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người bị hại thì bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường. Tại phiên tòa hôm nay chị Trần Thị Thu C đại diện người bị hại trình bày; chị đã nhận được số tiền bồi thường thiệt hại là 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) từ phía gia đình của bị cáo, nay chị không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác. Xét thấy, yêu cầu của chị C là tự nguyện, phù hợp với pháp luật, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, không xem xét về phần bồi thường thiệt hại.

[5] Tịch thu tiêu hủy các loại vật chứng không còn giá trị sử dụng được thu giữ trong quá trình điều tra. Các loại vật chứng trên được quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/5/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời trình bày bào chữa của luật sư; ý kiến của Trợ giúp viên pháp lý được Hội đồng xét xử lắng nghe và xem xét trong lúc nghị án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Thành T (Tèo Lớn) phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.

Áp dụng: điểm c khoản 3 Điều 142; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Phan Thành T 14 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/3/2021.

Tịch thu tiêu hủy các loại vật chứng không còn giá trị sử dụng được thu giữ trong quá trình điều tra. Các loại vật chứng trên được quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/5/2021 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

Bị cáo Phan Thành T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án nhưng người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ thì còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, sự tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

376
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về