Bản án 05/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 14/01/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Trong ngày 14 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 148/2020/TLST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Quang H, sinh ngày 05/02/2002 tại Đồng Nai. Nơi cư trú: Ấp 4, xã PĐ, huyện TP, tỉnh ĐN. Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam: tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thành Đ (1978) và bà Tạ Thị C (1977); vợ con không có; tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo được áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 145/CQĐT-ĐTTH ngày 06/8/2020 từ ngày 06/8/2020 đến ngày 06/12/2020, hiện tại ngoại (có mặt).

- Bị hại: Nguyễn Thị Ch (đã chết) Địa chỉ: Ấp TT, xã PX, huyện TP, tỉnh ĐN.

Người đại diện theo pháp luật của bà Nguyễn Thị Ch:

1. Ông Lê Văn H, sinh năm 1943 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp TT, xã PX, huyện TP, tỉnh ĐN

2. Ông Lê Văn S, sinh năm 1969 (có mặt) Địa chỉ: Ấp 1, xã TS, huyện ĐQ, tỉnh ĐN.

Ông Lê Văn H ủy quyền cho ông Lê Văn S đại diện tham gia tố tụng. (Theo văn bản ủy quyền ngày 15/6/2020)

3. Bà Lê Thị M, sinh năm 1964 (có mặt) Địa chỉ: Ấp TL1, xã PT, huyện TP, tỉnh ĐN

4. Bà Lê Thị Thanh N, sinh năm 1966 (có mặt) Địa chỉ: Tổ 7, Ấp 1, xã TS, huyện ĐQ, tỉnh ĐN

5. Bà Lê Thị Thanh Th, sinh năm 1972 (có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Ấp TL2, xã PT, huyện TP, tỉnh ĐN

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Tạ Thị C, sinh năm 1977 (có mặt) Địa chỉ: Ấp 4, xã PĐ, huyện TP, tỉnh ĐN

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Quang H không có giấy phép lái xe theo quy định.

Khoảng 06 giờ 40 phút ngày 03/6/2020, H điều khiển xe mô tô biển số 95EA-013-71 số máy HWT-00003896, số khung ND61V-03896 có dung tích xi lanh 107cm3 (thực tế xe mô tô có biển số 51R5-7451, thuộc quyền sở hữu của gia đình H, nhưng do bị mất biển số nên gắn biển số 95EA-013.71 để làm phương tiện đi lại) lưu thông trên Quốc lộ 20 theo hướng Dầu Giây – Lâm Đồng. Khi đến Km 64 + 200m, Quốc lộ 20, thuộc ấp Thọ Lâm 1, xã Phú Thanh, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện bà Nguyễn Thị Ch đang đi bộ từ bên phải qua bên trái đường theo chiều lưu thông của H, lúc này H không giảm tốc độ xe mô tô đến mức không còn nguy hiểm và có thể dừng lại một cách an toàn và nhường đường cho người đi bộ qua đường mà điều khiển xe sang trái để tránh bà Ch, nhưng do khoảng cách quá gần nên xe mô tô do H điều khiển đã đụng vào người bà Ch gây tai nạn giao thông đường bộ.

Hậu quả: Nguyễn Thị Ch chết trên đường đi cấp cứu.

Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 143/TT/2020 ngày 16/6/2020 của Trung tâm pháp y Đồng Nai kết luận nguyên nhân chết của bà Ch do chấn thương não gây vỡ sọ vùng chẩm trái nhiều đường phức tạp, chảy máu nội sọ.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như cáo trạng mô tả. Bị cáo không có giấy phep lái xe theo quy định, là người điều khiển xe mô tô do không nhường đường cho người đi bộ đã gây tai nạn làm bà Ch tử vong. Gia đình bị cáo đã bồi thường thỏa đáng cho bị hại.

Đại diện hợp pháp của bị hại thống nhất với nội dung cáo trạng truy tố bị cáo. Gia đình bị cáo đã bồi thường thiệt hại thỏa đáng cho bị hại, đại diện bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Sau khi phân tích các dấu hiệu phạm tội, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; đặc điểm nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo H về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 38, điểm a khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo H từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử quyết định về án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không bào chữa, tranh luận cho hành vi của mình, việc xét xử là không oan sai và nói lời sau cùng như sau: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm về hoà nhập với cộng đồng và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Thủ tục tố tụng: Hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên đã được thực hiện đúng về trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Xác định người tham gia tố tụng trong vụ án: Theo lời khai tại phiên tòa của ông S thể hiện ông H và bà Ch có 04 người con. Ngoài ông S, còn có 03 người con nữa gồm các bà Lê Thị M, Lê Thị Thanh N và Lê Thị Thanh Th. Như vậy, việc Cơ quan điều tra xác định người đại diện của bà Ch gồm ông H, ông S là thiếu sót, Hội đồng xét xử xác định thêm người đại diện hợp pháp của bà Ch còn có các bà M, N và Th. Tại phiên tòa, bà M, N, Th không có yêu cầu nào khác đối với bị cáo.

[3] Hành vi, tính chất, mức độ phạm tội:

Tại phiên tòa, bị cáo không cung cấp tài liệu chứng cứ mới và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo tại tòa là phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận:

Khoảng 06 giờ 40 phút ngày 03/6/2020, bị cáo không có giấy phép lái xe, điều khiển xe mô tô biển số 95EA-013.71 (biển số thật là 51R5.7451) lưu thông trên quốc lộ 20 theo hướng Dầu Giây – Lâm Đồng. Khi đến km 64 + 200m do thiếu chú ý quan sát nên khi phát hiện bà Ch đi bộ từ phải sang trái bị cáo đã không giảm tốc độ xe mô tô đến mức không còn nguy hiểm và có thể dừng lại một cách an toàn và không nhường đường cho người đi bộ qua đường dẫn đến xe do bị cáo điều khiển đụng vào bà Ch làm bà tử vong.

Hiện trường vụ tai nạn thể hiện: Mặt đường rộng 11m, được chia thành 02 phần đường bằng vạch sơn màu vàng đứt quảng rộng 10cm, trên mỗi phần đường được chia thành 02 làn đường bằng vạch sơn liền màu trắng rộng 20cm, phần đường xe cơ giới rộng 3,5m, phần đường giành cho xe thô sơ, người đi bộ rộng 2m. Vị trí xe mô tô nằm nghiêng sang trái, nằm ở giữa đường. Đầu vết cà xe mô tô nằm trên làn đường xe cơ giới cách mép đường phải theo chiều lưu thông của H là 4m50, cuối vết cà xe mô tô nằm trên phần đường xe cơ giới cách mép đường phải theo chiều lưu thông của H là 5m60. Vết máu nạn nhân cách mép đường phải theo chiều lưu thông của H 3m10.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 260 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng và lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[4] Tội phạm do bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của bà Ch, gây hoang mang trong cộng đồng dân cư nơi xảy ra vụ án, mà còn ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Vì vậy, nhằm để giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội, cần thiết phải xét xử và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã gây ra, để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[5] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân:

[5.1] Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5.2] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi; đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, tại phiên tòa các đại diện hợp pháp của bị hại có yêu cầu xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5.3] Đặc điểm nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

[6] Hình phạt, căn cứ quyết định hình phạt:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi vô ý, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, trong đó có ít nhất 02 tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 51 nên áp dụng hình phạt dưới khung cũng đủ tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong xã hội.

[7] Các biện pháp tư pháp:

[7.1] Bồi thường thiệt hại: Bị cáo và đại diện cho bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong. Đại diện hợp pháp cho bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm.

[7.2] Xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân, loại hình phạt áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm a khoản 2 Điều 260; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quang H phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

Xử phạt Nguyễn Quang H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HS-ST ngày 14/01/2021 về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về