Bản án 05/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 05/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 163/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 184/2020/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 12 năm 202 đối với bị cáo:

Vũ Quang D, sinh năm 1998 tại Hải Phòng. Nơi ĐKHK: Phương ĐH, quân KA, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; văn hóa: 5/12; con ông: Trần Quang Tr (hiện mất tích) và bà Vũ Thị Nh (đã chết). Tiền sự: Không; nhân thân: Không.

Tiền án: Bị cáo có 02 tiền án chưa xóa: Bản án số 97/2017/HSST ngày 07/7/2017 Tòa án nhân dân quận Lê Chân xử phạt 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản"; Bản án số 14/2019/HSST ngày 26/3/2019 Tòa án nhân dân huyện An Lão xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Mãn hạn tù ngày 25/5/2020.

Bị tạm giữ từ ngày 16/9/2020 đến ngày 24/9/2020 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lương Thị Th - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Tuấn M, sinh năm 2001; trú quán: Số 3/10 tổ 14 phường LH, quân KA, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng giữa tháng 8/2020, Vũ Quang D quen biêt anh Nguyên Tuân M, sinh năm: 2001, trú tại: Sô 3/10 tô 14 Lãm Hà, Kiên An, Hải Phòng. Do không có tiền tiêu xài nên sau khi biết anh M mới mua xe mô tô nhãn hiệu Airblade, BKS: 15B3 – 673.67, D đã nay sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt chiếc xe này của anh M.

Khoảng 13h00’ ngày 31/8/2020, D nói dối anh M mượn xe mô tô Airblade, BKS:

15B3 – 673.67để đi gửi hàng 15 phút sau sẽ quay về trả. Anh M tin và giao xe cho D. Sau khi được anh M giao xe, D đi đến bến xe Niệm Nghĩa chuyển xe mô tô lên xe khách đi Bắc Ninh tìm nơi tiêu thụ tài sản và tắt điện thoại liên lạc với anh M.

Ngày 04/9/2020, D mang xe đến quán sửa xe của chị Lê Thị Thanh, sinh năm 1995, ở địa chỉ: Dương Húc, Đại Đồng, Tiên Du, Bắc Ninh gạ bán xe nhưng chị Thanh không mua. Sau đó, D tiếp tục mang xe đi Lào Cai, Thanh Hóa nhưng không bán được nên ngay 16/9/2020 D về Hai Phong tìm nơi tiêu thụ thì bị Công an thành phố Hải Phòng bắt giữ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 100/KL-HĐĐGTS ngày 18/9/2020 của Hội đồng định giá tài sản quận Lê Chân kết luận: Xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS 15B3-673.67 đã qua sử dụng có giá trị 50.800.000 đồng Chiếc xe mô tô đã trả lại cho Anh Nguyễn Tuấn M. Anh M không yêu cầu bồi thường.

Tại bản Cáo trạng số 04/CT-VKS-P3 ngày 21 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố Vũ Quang D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c, d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận phù hợp với nội dung bản Cáo trạng.

Sau phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát trình bày quan điểm luận tội: Viện kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" là đúng, đồng thời phân tích hành vi, nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, có 02 tiền án chưa xóa, phạm tội lần này là tái phạm nguy hiểm và tài sản lừa đảo trị giá trên 50 triệu đồng nên bị cáo phạm 02 tình tiết định khung theo điểm c, d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Bị cáo thành khẩn khai báo, mẹ chết, bố mất tích, phải ở với bà và cậu, hiện là hộ cận nghèo; Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm điểm s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Vũ Quang D từ 03 năm đến 04 năm tù. Miễn án phí cho bị cáo.

Về dân sự và vật chứng không đề nghị giải quyết.

Trợ giúp viên pháp lý có quan điểm bào chữa cho bị cáo: Không tranh luận về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo mà trợ giúp viên phân tích nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm: Mẹ bị cáo chết từ năm bị cáo 06 tuổi, bố bị cáo bỏ đi biệt tích, bà ngoại gì yếu, bị cáo ở với cậu nhưng lại bị bệnh tâm thần. Suy nghĩ của bị cáo rất đơn giản là lừa đảo xe của anh M để bán lấy tiền tiêu xài. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội chưa gây thiệt hại và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử bị cáo dưới mức Viện kiểm sát đề nghị. Đề nghị miễn phạt tiền và án phí đối với bị cáo.

Bị cáo không tranh luận. Bị cáo nói lời cuối cùng: xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Bị cáo có quen biết Anh Nguyễn Tuấn M, biết anh M mới mua xe Airblade, Do cần tiền tiêu xài nên bị cáo nảy ra ý định chiếm đoạt xe của anh M bằng hình thức: Chiều 31/8/2020, bị cáo đến quán cắt tóc của anh M giả vờ đi cắt tóc, trong lúc chờ đến lượt cắt tóc, bị cáo hỏi mượn xe của anh M đi gửi hàng khoảng 15 phút. Anh M tin tưởng giao chìa khóa xe mô tô cho bị cáo và bị cáo đã mang xe đi Bắc Ninh, Lào Cai, Thanh Hóa tiêu thụ nhưng không ai mua vì xe không có giấy tờ. Ngày 16/9/2020, bị cáo về Hải Phòng tìm nơi tiêu thụ thì bị Công an bắt. Hành vi của bị cáo đã phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản", phạm Điều 174 Bộ luật Hình sự.

[3] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo không những đã xâm phạm đến tài sản của công dân mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an địa phương, nên cần phải xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xét:

- Tình tiết định khung hình phạt:

[4] Bị cáo lừa đảo chiếm đoạt chiếc xe mô tô Airblade BKS 15B3 673.67 của anh M, theo kết luận của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thì xe trị giá 50.800.000 đồng; bị cáo có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa, phạm tội lần này phạm tình tiết định khung là “Tái phạm nguy hiểm”. Do vậy bị cáo phạm 02 tình tiết định khung theo điểm c, d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự, có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm, như Viện kiểm sát truy tố và kết luận là đúng.

[5] Bị cáo không phạm các tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ là: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã được thu hồi trả bị hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên được áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Và đồng thời cũng xét hoàn cảnh của bị cáo: Bố hiện nay không xác định được ở đâu, còn sống hay đã chết; và mẹ chết từ năm bị cáo 06 tuổi, ở với bà ngoại sinh năm 1934, khi bà ngoại không còn khả năng nuôi thì D về ở với cậu ruột là ông Vũ Đình Trọng, trú quán tại: Tổ Phương Khê, phường Đồng Hòa, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng gia đình ông Trọng bị bệnh tâm thần, là hộ cận nghèo ở địa phương, do vậy bị cáo D có Trợ giúp pháp lý bào chữa. Vì bị cáo thiếu người chăm sóc giáo dục; Năm 2010 khi bị cáo 12 tuổi, đã có hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”, chính quyền địa phương phải áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Năm 2013 lại tiếp tục đưa vào trường giáo dưỡng vì có hành vi “Trộm cắp tài sản”. Đến năm 2017 và 2019 bị Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”. Vừa thi hành xong bản án thứ 2, chưa xóa án, lại phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

[6] Với phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của Trợ giúp viên về các tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và điều kiện hoàn cảnh của bị cáo để miễn phạt tiền và án phí. Không chấp nhận quan điểm của Trợ giúp viên pháp lý về tình tiết giảm nhẹ là: Chưa gây thiệt hại.

[7] Vì bị cáo có nhân thân rất xấu, tại phiên tòa bị cáo khai chỉ đăng ký nhân khẩu tại nhà cậu ruột là ông Trọng, bị cáo không ở đó nào; khi mãn hạn tù bị cáo lang thang kiếm sống, không có nơi ở cố định, nên cần áp dụng mức án đối với bị cáo phải cao hơn khởi điểm của khung hình phạt áp dụng mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[8] Vì điều kiện hoàn cảnh của bị cáo nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Về bồi thường dân sự: Anh Nguyễn Tuấn M đã nhận lại tài sản đầy đủ, không yêu cầu gì, Hội đồng xét xử không xét.

[10] Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[11] Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hình phạt: Căn cứ điểm c, d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Vũ Quang D 04 (bốn) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 16/9/2020.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo không phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về bồi thường dân sự: Bị hại Anh Nguyễn Tuấn M đã nhận lại đủ tài sản và không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 05/2021/HS-ST ngày 13/01/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:05/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về